Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhãn hiệu và thương hiệu là hai thuật ngữ được sử dụng rất nhiều trong kinh doanh. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể phân biệt một cách rõ ràng được hai khái niệm này. Bài viết này có thể giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về thương hiệu, nhãn hiệu và cách thức phân biệt chúng.
Căn cứ pháp lý:
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009
1. Nhãn hiệu là gì?
1.1 Khái niệm nhãn hiệu
Nhãn hiệu là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phải là những dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình ảnh, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
1.2 Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu
Một nhãn hiệu muốn được bảo hộ trước hết phải đáp ứng được các điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Cụ thể, một nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
– Thứ nhất: Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Điều kiện này được hiểu là nhãn hiệu đó phải dược nhận thức, cảm nhận bằng thị giác của con người chứ không phải là vô hình thông qua việc nhìn ngắm, quan sát nhãn hàng hóa và thấy được nhãn hiệu của hàng hóa đó để phân biệt với hàng hóa dịch vụ khác. Hay nói cách khác nhãn hiệu phải tồn tại dưới dạng một vật chất nhất định để con người có thể nhìn thấy được. Để có thể như vậy, nhãn hiệu phải tồn tại dưới dạng chữ viết, hình ảnh, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố trên và được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Ví dụ nhãn hiệu dưới dạng chữ viết như nhãn hiệu của nước giải khát Coca-Cola là dòng chữ Coca-Cola màu đỏ trên nền trắng.
– Thứ hai: nhãn hiệu đó phải có khả năng phân biệt với hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa dịch vụ của chủ thể khác. Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dế ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không thuộc các trường hợp thuộc khoản 2 Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Dễ nhận biết, dễ ghi nhớ được hiểu là khi quan sát thì người tiêu dùng có thể ấn tượng và lưu lại trong trí nhớ của mình, bất kỳ ai klhi đã nhìn thấy nhãn hiệu cũng đều dễ dàng nhận biết và phân biệt nhãn hiệu đó với các loại nhãn hiệu khác.
– Ngoài ra, theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước;
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép;
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài;
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận;
+ Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ.
1.3 Các loại nhãn hiệu
Luật Sở hữu trí 2005 sửa đổi 2009 đang phân loại nhãn hiệu theo tính chất. Cụ thể, nhãn hiệu gồm 04 loại:
– Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó (khoản 17 Điều 4);
– Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu (khoản 18 Điều 4);
– Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau (khoản 19 Điều 4);
– Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam (khoản 20 Điều 4).
2. Thương hiệu là gì?
Thương hiệu (Brand) là một trong những khái niệm còn mới mẻ nhưng nhận được nhiều sự quan tâm trong nền marketing hiện đại. Có rất nhiều cách định nghĩa về khái niệm này. Mỗi cách định nghĩa với một hướng tiếp cận khác nhau đã khai thác bản chất nhiều mặt của thương hiệu.
– Theo Hiệp hội Marketing Mỹ, “Thương hiệu (brand) là tên gọi, biểu tượng, dấu hiệu, kiểu dáng hoặc sự phối hợp tất cả các yếu tố này để có thể nhận biết hàng hoá hoặc dịch vụ của một người bán cũng như phân biệt nó với hàng hoá hay dịch vụ của những người bán khác”.
– Simon Anholt là vị diễn giả, cố vấn chính sách độc lập hàng đầu thế giới hiện nay đã có một định nghĩa rất đúng về thương hiệu. Theo ông, “Thương hiệu là một sản phẩm, dịch vụ hay tổ chức, có tên gọi, nhận diện và uy tín đã được công nhận.”
Trong số nhiều quan điểm khác nhau về thương hiệu, có những quan điểm thiên về hình ảnh thương hiệu và cũng có những quan điểm chú trọng đến chất lượng sản phẩm. Với Simon Anholt ông đánh giá cao vai trò của chất lượng sản phẩm. Với ông, thương hiệu là một hình thức mới sản phẩm, đỉnh cao của sản phẩm chính là thương hiệu
– Tuy nhiên cũng có những quan điểm thiên về hình ảnh thương hiệu như quan điểm của người được mệnh danh là ông tổ của marketing hiện đại Philip Kotler “Thương hiệu (Brand) có thể được hiểu như là tên gọi, thuật ngữ, biểu tượng, hình vẽ hay sự phối hợp giữa chúng được dùng để xác nhận sản phẩm của người bán và để phân biệt với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh”.
Phần đa mọi người khi nhắc đến thương hiệu thường có sự liên tưởng đến một khái niệm gần giống với nó là nhãn hiệu. Tuy nhiên vấn đề phân biệt chính xác giữa thương hiệu với nhãn hiệu vẫn còn là cuộc tranh biện lớn trong giới chuyên môn và cộng đồng marketing trên thế giới. Những khái niệm về thương hiệu đưa ra hiện nay dù tiếp cận theo hướng thương mại, sở hữu trí tuệ hay ứng dụng marketing đều có chung những đặc điểm sau:
+ Thương hiệu là một hợp các dấu hiệu nhận biết cảm tính lẫn lý tính với đầy đủ các khía cạnh như mô tả nhận diện, thuộc tính, cá tính, giá trị…mà khách hàng nhận được khi tiếp xúc với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
+ Thương hiệu là thứ tài sản vô hình như giá trị của thương hiệu. Nó nắm giữ sợi dây sinh mệnh của một doanh nghiệp, khẳng định những giá trị bền vững đang có ở hiện tại và tạo ra những giá trị mới trong tương lai.
+ Thương hiệu ràng buộc mối quan hệ với người tiêu dùng, thương hiệu là thứ đọng lại sau cùng trong tâm trí người tiêu dùng giống như khi bạn đi qua bông hoa mà hương thơm vẫn còn vương vít trên vai áo.
3. Phân biệt nhãn hiệu và thương hiệu?
Tiêu chí | Nhãn hiệu | Thương hiệu |
Khái niệm | Theo định nghĩa của Tổ chức Sở hữu trí tuệ nhãn hiệu là “ các dấu hiệu dùng những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tượng tự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu là những dấu hiệu dùng phân biệt hàng hóa, dịch vụ (nhãn hiệu hàng hóa ) cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Nhãn hiệu được coi là một loại tài sản vô hình của người hoặc công ty thực hiện hoặc sản xuất và là một trong các đối tượng sở hữu được pháp luật bảo hộ. | Thương hiệu là một cái tên gắn liền với một sản phẩm hoặc một nhà sản xuất. nó thường gắn liền với quyền sở hữu của nhà sản xuất và thường được ủy quyền cho người đại diện thương mại chính thức. |
Hình thức | Nhãn hiệu Là những dấu hiệu được nhận biết bằng các giác quan thường là thị giác, đó có thể là chữ cái, từ ngữ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Luật một số nước như Hoa Kỳ còn công nhận nhãn hiệu bằng mùi hương. | Thương hiệu là một tài sản vô hình của doanh nghiệp nó không dễ nhận biết như nhãn hiệu. Khi nói đến thương hiệu người ta liên tưởng đến những yếu tố tạo nên danh tiếng của sản phẩm đó, bao gồm cả hữu hình lẫn vô hình, như kiểu dáng, chất lượng sản phẩm, định hình nhãn hiệu của sản phẩm, giá cả, thái độ phục vụ của nhân viên bán hàng, cảm nhận của khách hàng. |
Thời hạn bảo hộ | 10 năm. Chủ sở hữu có thể xin gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần là 10 năm. | Thương hiệu không phải đối tượng điều chỉnh của luật pháp và không được luật pháp bảo hộ. Nó có thể tồn tại ngay cả khi hàng hóa, dịch vụ mang thương hiệu không tồn tại bởi thương hiệu do sự đánh giá của người tiêu dùng nên chừng nào sản phẩm còn được người tiêu dùng tin dùng và có cảm nhận tích cực thì sản phẩm đó cũng sẽ vẫn còn thương hiệu. |
Giá trị | Sau khi thực hiện thủ tục đăng lý tại Cục sở hữu trí tuệ sẽ trở thành tài sản và có thể đem ra định giá. | Thương hiệu thì không được đem ra định giá một cách dễ dàng vì nó gắn liền với uy tín, khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ do đó các doanh nghiệp khác không thế bắt chước hay làm giả được bởi nó bao hàm cả sự tin tượng và thái độ lựa chọn của khách hàng đối với một sản phẩm của một thương hiệu nào đó. |
Về mặt pháp lý | Nhãn hiệu là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. | Thương hiệu không phải là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam |
Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về nhãn hiệu, thương hiệu, cách thức phân biệt nhãn hiệu và thương hiệu. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006568 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.