Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức được thành lập, đánh dấu một cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Được sáng lập bởi Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), Đảng ra đời với sứ mệnh lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong hành trình giành độc lập, tự do và xây dựng đất nước.
Trải qua những giai đoạn lịch sử đầy thử thách, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dẫn dắt nhân dân vượt qua ách thống trị của thực dân và phong kiến, giành được những thắng lợi to lớn như Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, và Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Ngày 3/2/2025, không chỉ là chào đón Tết cổ truyền mà còn là dịp để chúng ta ôn lại trang sử vẻ vang, tri ân những đóng góp to lớn của Đảng và củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo trong hành trình xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hãy cùng Luật Dương Gia nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng qua bài viết sau.
1. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc không chỉ gia tăng bóc lột nhân dân lao động trong nước mà còn tiến hành xâm lược và áp bức các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc khiến cuộc sống của nhân dân lao động ngày càng trở nên cơ cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa thực dân trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết, dẫn đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở nhiều quốc gia thuộc địa.
Sự kiện Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là một bước ngoặt quan trọng khi chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ còn là lý thuyết mà trở thành hiện thực, mở ra một kỷ nguyên mới—kỷ nguyên cách mạng chống đế quốc và giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga trở thành tấm gương sáng cho các phong trào giải phóng dân tộc.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đặc biệt, đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá tư tưởng Mác-Lênin và góp phần thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, tiến hành thiết lập bộ máy thống trị và biến đất nước thành một thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, chia Việt Nam thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, và áp dụng các chế độ cai trị riêng biệt cho từng vùng. Pháp liên kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, Pháp thực hiện chính sách bóc lột khai bằng cách chiếm đoạt đất đai, xây dựng đồn điền, khai thác tài nguyên, và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, Pháp thực thi chính sách văn hóa nô dịch, làm giảm lòng tự trọng dân tộc, khuyến khích mê tín dị đoan, và cấm mọi hoạt động yêu nước, đồng thời ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ từ bên ngoài vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu sân để dễ bề cai trị.
Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã khiến xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, cụ thể:
- Giai cấp địa chủ, liên kết với thực dân Pháp, tăng cường bóc lột nông dân. Tuy nhiên, trong số địa chủ, cũng có một bộ phận có lòng yêu nước, căm ghét thực dân, tham gia đấu tranh dưới nhiều hình thức.
- Giai cấp nông dân, là lực lượng đông đảo nhất, phải chịu sự áp bức và bóc lột nặng nề từ thực dân và phong kiến. Tình cảnh bần cùng của nông dân đã tạo nên lòng căm thù đế quốc và phong kiến, đồng thời khơi dậy ý chí đấu tranh giành lại đất đai và quyền sống tự do.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của dân Pháp, đa phần là người nông dân. Mặc dù bị áp bức, công nhân có mối liên hệ chặt chẽ với nông dân và cùng chung cuộc đấu tranh.
- Giai cấp tư sản Việt Nam bị cạnh tranh chèn ép bởi tư sản Pháp và người Hoa, khiến họ có thế lực kinh tế và chính trị yếu ớt, mặc dù có tinh thần dân tộc nhất định.
- Tầng lớp tiểu tư sản, bao gồm học sinh, trí thức, và người làm nghề tự do,… sống trong cảnh bấp bênh, dễ bị phá sản và rơi vào tầng lớp vô sản, cũng mang lòng yêu nước và căm ghét đế quốc. Bên cạnh đó, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyển vào.
Tất cả các tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều chịu sự áp bức và bóc lột của thực dân Pháp. Trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với gia cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tình hình xã hội lúc này đặt ra hai yêu cầu cấp thiết: Một là đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân; Hai là xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ, đặc biệt là quyền đất đai cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc và giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, mọi giai cấp và tầng lớp đều chung số phận của một dân tộc mất nước, phải chịu cảnh áp bức và bóc lột dưới ách thống trị của thực dân. Vì vậy, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ và phong kiến, một mâu thuẫn khác vừa mang tính cơ bản vừa mang tính chủ yếu đã hình thành và ngày càng gay gắt đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam và thực dân Pháp xâm lược. Trước tình hình xã hội lúc này, hai yêu cầu cấp thiết được đặt ra: Một là, đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ, đặc biệt là quyền đất đai cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc và giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước tình hình đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống lại thực dân Pháp diễn ra liên tục nhưng đều không đạt kết quả. Phong trào Cần Vương, do giai cấp phong kiến lãnh đạo, kết thúc vào cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng (1896) lãnh đao. Đầu thế kỷ XX, khuynh hướng yêu nước này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, kéo dài suốt nhiều năm cũng thất bại vào năm 1913. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng không mang lại kết quả. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái, do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, cũng bị thất bại.
Mặc dù các phong trào yêu nước này tiếp nối truyền thống yêu nước,bất khuất của dân tộc nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết, các phong trào đó đã lần lượt thất bại, khiến cách mạng Việt Nam rơi vào khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ năm 1921 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, vừa nghiên cứu và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và yêu nước Việt Nam. Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc), gửi cán bộ sang học tại Liên Xô và Trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc). Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã diễn ra tại bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại diện Quốc tế Cộng sản. Tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề xuất 5 vấn đề lớn cần thảo luận và thống nhất, trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc tự phê bình và phê bình, với yêu cầu “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm Cộng sản Đông Dương”.
Trước đó, nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ bộ Bắc Kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Đến tháng 11/1929, Tổng bộ và Kỳ bộ Nam Kỳ của Hội cũng quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, tại Trung Kỳ, các đại biểu ưu tú của Tân Việt Cách mạng Đảng đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Tuy nhiên, sự tồn tại đồng thời của ba tổ chức Cộng sản dẫn đến tình trạng phân tán về lực lượng, không thống nhất về tư tưởng và hành động. Điều này đặt ra trách nhiệm lịch sử phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất để chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
Hội nghị đã đi đến thống nhất, quyết định hợp nhất các tổ chức Cộng sản và thành lập một đảng duy nhất mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Hội nghị, các văn kiện quan trọng như Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, cùng Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Những văn kiện này, đặc biệt là Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, phản ánh nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất được coi như một Đại hội thành lập Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960), Đảng quyết định lấy ngày 3/2 hàng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam – thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh này xác định con đường cách mạng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu lịch sử cấp bách, đồng thời trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các tổ chức Cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
4. Kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trải qua 95 năm kể từ khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết, kiên cường đấu tranh và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ chủ quyền và xây dựng nền kinh tế – xã hội vững mạnh. Mùa xuân năm 1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử, chấm dứt khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. Đảng được thành lập từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tinh thần yêu nước, khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam.
Bước vào thế kỷ XXI, trước những thách thức từ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Đảng tiếp tục dẫn dắt dân tộc đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ. Những chiến lược trọng tâm như phát triển nền kinh tế số, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu đã khẳng định tầm nhìn chiến lược và quyết tâm mạnh mẽ của Đảng trong việc kiến tạo tương lai. Dưới sự dẫn dắt này, tinh thần tự lực, tự cường và khát vọng phát triển của dân tộc được khơi dậy, hướng đến mục tiêu xây dựng một Việt Nam hiện đại, hùng cường và hạnh phúc.
Năm nay, những sự kiện trọng đại như 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 50 năm giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, cùng 80 năm thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là dịp để nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang. Những dấu mốc quan trọng này không chỉ minh chứng cho tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường mà còn thể hiện bản lĩnh vững vàng của dân tộc trên hành trình bảo vệ và xây dựng đất nước. Đảng luôn đề cao vai trò của toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, trong việc hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược. Chính thế hệ hôm nay, với khát vọng sáng tạo và trách nhiệm lịch sử, sẽ tiếp nối những trang sử vàng chói lọi của dân tộc.
Những thành tựu đáng tự hào của dân tộc là nguồn cảm hứng và niềm tin mạnh mẽ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đó cũng là động lực để nhân dân Việt Nam tiếp tục đoàn kết, phát huy trí tuệ và sức mạnh dân tộc, cùng nhau xây dựng một tương lai phồn vinh, đưa đất nước tiến bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của hạnh phúc, phát triển và khát vọng trở thành quốc gia hùng cường trên thế giới.
Trên đây là bài viết của Luật Dương Gia về “Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam – 03/02/1930” . Nếu bạn còn bất kỳ thắc mắc nào hoặc cần sử dụng dịch vụ pháp lý của chúng tôi, hãy liên hệ ngay với Luật Dương Gia để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.
CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0931548999; 02367300899