Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

thiet-hai-do-suc-khoe-bi-xam-pham

Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, không chỉ quyết định chất lượng cuộc sống mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng lao động, học tập và phát triển. Tuy nhiên, thực tế có không ít trường hợp sức khỏe bị xâm phạm bởi những hành vi vi phạm pháp luật, gây ra tổn thất nghiêm trọng cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, vấn đề bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm trở thành một nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật, nhằm đảm bảo công bằng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi cá nhân. Trong phạm vi bài viết này, Luật Dương Gia làm rõ những nội dung liên quan đến vấn đề này.

Căn cứ pháp lý:

1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại Điều 584 của Bộ luật dân sự (BLDS) thì: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. 

Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự (trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng) chỉ phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:

Một là, phải có thiệt hại xảy ra

Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất bao gồm: Thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm quy định tại Điều 590 của BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại Điều 591 của BLDS. Thiệt hại do tổn hại về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe bị xâm phạm mà người bị hại, hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích, người gần gũi nhất của người bị hại phải gánh chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm.

Hai là, phải có hành vi trái pháp luật

Hành vi trái pháp luật là hành vi xử sự cụ thể của con người thực hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật.

Ba là, phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật.

Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.

Bốn là, phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây ra thiệt hại

Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây ra thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn nhưng vẫn để mặc cho thiệt hại xảy ra. Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy tra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

2. Các thiệt hại được bồi thường khi sức khỏe bị xâm phạm

Căn cứ tại 590 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về những thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm sẽ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Đối với thiệt hại về vật chất là những thiệt hại xảy ra trên thực tế có thể tính toán được một cách cụ thể bằng các đơn vị đo lường. Đối với thiệt hại về tinh thần thì đây là loại thiệt hại không thể xác định cụ thể bằng các đơn vị đo lường. Nên việc bồi thường mang ý nghĩa bù đắp, xoa dịu nỗi đau tinh thần của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, việc xác định thiệt hại ở phương diện nào cũng phải dựa trên những thiệt hại thực tế, mà người bị thiệt hại buộc phải chứng minh.

2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe, chức năng bị mất bị giảm sút của người bị thiệt hại

Theo quy định tại Điều 7 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn điểm a khoản 1 điều 590 Bộ luật Dân sự thì chi phí này bao gồm:

– Chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh cho người bị thiệt hại; thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đến cơ sở khám chữa bệnh và trở về nơi ở;

– Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh, chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án;

– Chi phí phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút là các chi phí cho việc phục hồi, hỗ trợ, thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. cho người bị thiệt hại; chi phí cho việc thẩm mỹ, mua xe lăn; các bộ phận giả…để hỗ trợ hoặc thay thế phần cơ thể hoặc chức năng bị giảm sút hoặc mất của người thiệt hại.

– Trên thực tế, thiệt hại về sức khỏe của con người khó có thể xác định được một con số chính xác. Bởi sức khỏe là vốn quý của con người, việc hồi phục, cứu chữa trong nhiều trường hợp chỉ khôi phục một phần sức khỏe ban đầu của người bị thiệt hại, mà không thể hồi phục hoàn toàn được. Do đó, việc bồi thường chi phí này chỉ mang tính chất trợ cấp cho nạn nhân và gia đình

2.2. Thu nhập thực tế của người bị thiệt

Theo hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015 hướng dẫn bởi khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao thì phần thu nhập thực tế của người bị thiệt hại sức khỏe được tính như sau:

– Trường hợp người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương, tiền công thì được xác định theo mức tiền lương, tiền công của người bị thiệt hại trong khoảng thời gian tiền lương, tiền công bị mất hoặc bị giảm sút;

– Trường hợp người bị thiệt hại có thu nhập không ổn định từ tiền lương, tiền công được xác định căn cứ vào mức tiền lương, tiền công trung bình của 03 tháng liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra.

– Trường hợp không xác định được 03 tháng lương liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra thì căn cứ vào thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương trong khoảng thời gian thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

– Nếu không xác định được thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương thì thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút được bồi thường là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị thiệt hại cư trú cho 01 ngày bị thiệt hại. Ngày lương tối thiểu vùng được xác định là 01 tháng lương tối thiểu vùng do Nhà nước quy định chia cho 26 ngày.

2.3. Chi phí hợp lý, thu nhập thực tế cho người chăm sóc khi điều trị

Trong thời hạn người bị thiệt hại được điều trị, phục hồi sức khỏe, cần có người ở bên chăm sóc. Theo đó, người chăm sóc không chỉ phải bỏ thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, mà họ còn mất cả thu nhập đáng có trong thời hạn đó. Chính vì vậy, đây cũng là căn cứ để Bộ luật Dân sự xác định mức thiệt hại mà người vi phạm phải bồi thường.  Theo đó, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc được xác định bao gồm:

– Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi người bị thiệt hại điều trị (nếu có);

– Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như trường hợp thu nhập của người bị thiệt

– Trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động và phải có người thường xuyên chăm sóc thì chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị thiệt hại cư trú cho 01 ngày chăm sóc người bị thiệt hại.

2.4. Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người mất khả năng lao động

Tương tự như trường hợp bồi thường chi phí, thụ nhập thực tế bị thiệt hại khi chăm sóc người bị thiệt hại trong giai đoạn điều trị thì đối với trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động thì người gây thiệt hại cũng phải bồi thường những khoản tương tư liên quan việc chăm sóc người bị thiệt hại như trường hợp khi điều trị.

3. Mức bồi thường tổn thất về tinh thần

Phần tiền này bù đắp cho chính bản thân người bị thiệt hại sức khỏe. Bất cứ trường hợp nào người bị thiệt hại về sức khỏe cũng phải nhận được khoản tiền này. Việc xác định khoản bồi thường này dựa vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp, sinh hoạt gia đình và cá nhân…Mức bồi thường này thì được hai bên thỏa thuận với nhau.

Theo đó, tại khoản 2 Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định mức bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm như sau:

– Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.

– Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận;

– Nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Theo đó, tại Nghị định 24/2023/NĐ-CP quy định tăng mức lương cơ sở lên 1,8 triệu đồng.

Như vậy, mức bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm là không quá 90 triệu đồng.

4. Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng sức khỏe bị xâm phạm

Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng sức khỏe bị xâm phạm được quy định tại Điều 593 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:

– Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả năng lao động cho đến khi chết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng từ thời điểm người có tính mạng bị xâm phạm chết trong thời hạn sau đây:

+ Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;

+ Người thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

– Đối với con đã thành thai của người chết, tiền cấp dưỡng được tính từ thời điểm người này sinh ra và còn sống.

Trên đây là những nội dung liên quan đến việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Nhận thấy vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần của nạn nhân mà còn kéo theo những tổn thất về kinh tế và xã hội. Do đó, việc xác định và bồi thường thiệt hại một cách hợp lý không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của người bị hại mà còn góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc tôn trọng và bảo vệ sức khỏe con người, đồng thời giảm thiểu các hành vi xâm phạm sức khỏe trong xã hội.

Trong trường hợp bạn cần tư vấn thêm vui lòng liên hệ Luật Dương Gia để được hỗ trợ.

CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG

Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

Điện thoại: 0931548999; 02367300899

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon