Khi một cá nhân chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết sẽ dẫn đến nhiều hậu quả pháp lý khác nhau, liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhiều chủ thể trong các mối quan hệ dân sự nói chung và quan hệ hôn nhân gia đình nói riêng, đặc biệt là giữa vợ và chồng. Khi một bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết thì việc giải quyết tài sản giữa vợ chồng được thực hiện như thế nào, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý:
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
1. Tuyên bố một người là đã chết là gì?
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm “Tuyên bố chết” là gì. Tuy nhiên, khái niệm này có thể được hiểu như sau: Tuyên bố chết là nội dung được thể hiện trong quyết định tuyên bố một người là đã chết của Tòa án nhằm xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết khi có đủ các căn cứ luật định.
2. Điều kiện tuyên bố cá nhân là đã chết
Thứ nhất, đã quá thời hạn nhất định mà cá nhân đó vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
Về cơ bản, điều kiện tuyên bố một người là đã chết là người đó đã bị Tòa tuyên mất tích từ 03 năm trở lên. Ngoài ra còn có thêm các trường hợp khác tương ứng với các điều kiện tuyên bố chết với trường hợp đó.
Theo đó, người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu tòa án tuyên bố một người là đã chết với các điều kiện tương ứng với các trường hợp theo quy định tại Điều 71 BLDS sau đây:
– Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. Trong trường hợp này, việc tạm dừng năng lực chủ thể của cá nhân sẽ được giải quyết theo hướng chấm dứt tư cách chủ thể của người đó. Lúc này Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người đó đã chết mà không cần đòi hỏi thêm thủ tục thông báo nào cả.
– Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
Ngày chiến tranh kết thúc có thể có nhiều quy định khác nhau như ngày chiến thắng, ngày tuyên bố chấm dứt chiến tranh, ngày ký hiệp định đình chiến, hiệp định hòa bình hoặc ngày tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tránh… Tùy theo hoàn cảnh của các cuộc chiến tranh mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ quyết định.
– Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Các tai nạn, thảm họa có thể là động đất, núi lửa, sóng thần; hành khách trong các tai nạn giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không; người trong hầm, lò, mỏ bị sập hoặc hư hỏng.
– Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó, nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng, nếu không xác định được ngày tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
Thứ hai, phải thông qua thủ tục thông báo tìm kiếm.
Điều kiện này không được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, tuy nhiên xuất phát từ điều kiện tuyên bố một người mất tích thì việc thông báo tìm kiếm đối với người có khả năng được tuyên bố đã chết là hoàn toàn hợp lí, việc thông báo tìm kiếm với mục đích nhằm xác định lại lần cuối cùng về tin tức còn sống của một người trước khi tòa án quyết định về thận phận pháp lú của họ.
Thứ ba, phải có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.
Đây là những cá nhân có sự ràng buộc trong mối quan hệ nào đó như hôn nhân gia đình, hành chính, lao động,…với người mà sự vắng mặt của người đó làm ảnh hưởng tới quyền lợi của họ. Ví dụ như vợ yêu cầu tòa án tuyên bố chồng đã chết để thực hiện các thủ tục pháp lý về thừa kế.
Khi một người thuộc một trong các trường hợp trên đây thì tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố chết và xác định ngày chết của người bị tuyên bố chết. Việc xác định ngày chết được quy định tại Khoản 2, Điều 71 Bộ luật dân sự, theo đó: “Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.”. Theo quy định này, thì ngày chết của người bị tuyên bố đã chết được xác định khá linh hoạt, phụ thuộc vào sự kiện thực tế xảy ra và thời hạn tuyên bố một một người đã chết để quyết định. Trong trường hợp không xác định được thì ngày quyết định tuyên bố một người đã chết có hiệu lực được xác định là ngày chết của người tuyên bố đã chết.
Tòa án sẻ gửi quyết định tuyên bố một người là đã chết cho Ủy ban nhân dân cấp xã/phường nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
3. Giải quyết tài sản trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
Khoản 2 Điều 66 Luật HN&GĐ 2014 quy định cách giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Theo đó, khi có yêu cầu chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác về chế độ tài sản. Tài sản của người bị Tòa án tuyên bố chết sẽ được chia thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Phần tài sản chia thừa kế của người này được xác định gồm có tài sản riêng và một nửa tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 612 BLDS 2015. Theo quy định này thì di sản gồm các loại tài sản thuộc quyền sở hữu của người đã chết mà trước khi chết họ chưa định đoạt hết, sau khi chết sẽ được chuyển cho những người thuộc hàng thừa kế (được quy định tại Điều 651 BLDS 2015).
Khi quyết định tuyên bố chết đối với một cá nhân của Tòa án có hiệu lực, thì thời điểm đó cũng là thời điểm mở thừa kế. Khoản 1, Điều 611 BLDS năm 2015 quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”. Đồng thời với việc này, cũng là thời điểm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
Như vậy, nếu như người bị tuyên bố chết có di chúc hợp pháp, thì tài sản họ để lại được chia theo di chúc. Trường hợp không có di chúc hoặc rơi vào một số trường hợp đặc biệt của Điều 644 của BLDS về thừa kể không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì di sản người chết để lại được chia theo pháp luật. Đồng thời, đây cũng là thời điểm mà những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ của mình nếu người chết yêu cầu. Trong trường hợp người bị tuyên bố chết chưa giải quyết xong nghĩa vụ tài sản với chủ thể nào đó, thì những người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ đó trong phạm vi tài sản của người bị tuyên bố chết để lại.
4. Hệ quả pháp lý của việc tuyên bố một bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố chết
Khi quyết định tuyên bố chết đối với cá nhân của Tòa án có hiệu lực thì cá nhân đó xem như đã chết, từ đó kéo theo việc giải quyết nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến tư cách chủ thể của người bị tuyên bố chết, quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản, cụ thể:
4.1. Về tư cách chủ thể
Trong trường hợp quyết định tuyên bố chết của Tòa án đối với một cá nhân có hiệu lực thì tư cách chủ thể của cá nhân đó chấm dứt hoàn toàn. Vợ, chồng hoặc con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người bị Tòa án tuyên bố chết có trách nhiệm đi đăng ký khai tử trong thời hạn 15 ngày (khoản 1 Điều 33 Luật Hộ tịch 2014). Ngay sau khi nhận được giấy tờ đăng ký khai tử và thấy việc khai tử đúng thì công chức tư pháp – hộ tịch ghi nội dung khai tử vào Sổ hộ tịch (khoản 2 Điều 34 Luật Hộ tịch 2014). Việc này sẽ dẫn đến một hệ quả đó là người bị Tòa án tuyên bố chết sẽ hoàn toàn bị chấm dứt tư cách chủ thể.
4.2. Về quan hệ nhân thân
Quan hệ hôn nhân, gia đình và các quan hệ khác về nhân thân của người đó được giải quyết như đối với người đã chết. Trong trường hợp này, thời điểm chấm dứt hôn nhân được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án. Người vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố chết sẽ trở thành người độc thân và họ có quyền tự do kết hôn với một người khác.
Đối với con cái, Luật HN&GĐ 2014 quy định “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhận được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân” (Điều 88), theo quy định này thì trong thời hạn 300 ngày kể từ ngày chết được Tòa án xác định trong quyết định tuyên bố chết, vợ của người bị Tòa án tuyên bố chết mà sinh con ra thì đứa con này vẫn được xác định là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân và được coi là con chung của vợ chồng.
4.3. Về quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản giữa vợ chồng trong trường hợp một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết áp dụng theo điều 66 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như đã trình bày ở mục 3 của bài viết.
5. Thủ tục tuyên bố một người là đã chết
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, bao gồm:
– Đơn yêu tuyên bố một người là đã chết;
– Bản sao CMND/CCCD/ Hộ chiếu của người nộp hồ sơ và người được yêu cầu tuyên bố là đã chết;
– Các chứng cứ chứng minh người bị yêu cầu đã thỏa mãn điều kiện bị tuyên bố là đã chết.
Bước 2: Toà án sẽ xem xét đơn và thụ lý vụ án; trong thời hạn là 20 ngày, kể từ ngày thụ lý, Toà án sẽ ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố đã chết là 04 tháng, được tính từ ngày đăng và phát thông báo đầu tiên. Sau 10 ngày kể từ ngày hết hạn công bố thông báo Tòa án sẽ mở phiên họp xét yêu cầu.
Bước 3: Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết; trong quyết định này, Tòa án phải xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự.
Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về cách giải quyết tài sản trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006568 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.