Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, tội phạm mua bán người, đặc biệt là mua bán trẻ em dưới 16 tuổi, đang trở thành một vấn nạn nghiêm trọng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Hành vi này không chỉ xâm phạm nghiêm trọng đến quyền con người mà còn gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội. Việc nhận thức rõ về tội danh này và các quy định pháp luật liên quan là điều cần thiết để bảo vệ trẻ em và duy trì trật tự xã hội. Chính vì vậy, hãy cùng Luật Dương Gia làm rõ nội dung này thông qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017);
– Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định “Về một số tình tiết định tội”
1. Thế nào là mua bán người dưới 16 tuổi?
Theo Điều 2 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao, “mua bán người dưới 16 tuổi” được hiểu là thực hiện một trong các hành vi sau:
– Chuyển giao người dưới 16 tuổi để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo.
– Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo.
– Chuyển giao người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
– Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
– Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi mua bán quy định tại các điểm a) và c).
Mục đích nhân đạo ở đây chỉ những trường hợp chuyển giao hoặc tiếp nhận vì lý do tốt đẹp, vì lợi ích thực sự của người dưới 16 tuổi (ví dụ: cho nhận con nuôi theo quy định của pháp luật). Trong trường hợp này, không cấu thành tội mua bán người.
Thủ đoạn thực hiện có thể rất tinh vi: lợi dụng nhu cầu hôn nhân, môi giới đưa người lao động ra nước ngoài, tình thế khốn cùng của gia đình, hoặc dùng vũ lực, chất kích thích để bắt giữ, lừa gạt nạn nhân.
Như vậy, hành vi mua bán người dưới 16 tuổi không chỉ đơn thuần là “bán” hoặc “mua” một đứa trẻ, mà còn bao gồm việc chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp nhằm mục đích trục lợi hoặc các mục đích phi nhân đạo khác.
2. Quy định pháp luật và cấu thành tội phạm của tội danh mua bán người dưới 16 tuổi
Tại Điều 151 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định Tội mua bán người dưới 16 tuổi với các yếu tố cấu thành tội phạm được phân tích cụ thể như sau:
2.1. Khách thể của tội phạm
Mua bán người dưới 16 tuổi là hành vi coi trẻ em như là một loại hàng để mua, bán, trao đổi kiếm lời. Tội phạm này xâm phạm thân thể, nhân phẩm, danh dự, quyền tự do của trẻ em.
Do đó, khách thể của tội phạm là quyền tự do, nhân phẩm, danh dự, quyền được Nhà nước bảo hộ về thân thể, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của trẻ em, quyền được sống , phát triển trong môi trường lành mạnh của trẻ em và sự an toàn của toàn xã hội.
2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi được pháp luật hình sự quy định bao gồm những hành vi sau đây:
– Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
– Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
– Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
Ngoài ra tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn áp dụng điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự, có đưa ra một số giải thích chi tiết như sau:
Mua bán người dưới 16 tuổi là thực hiện một trong các hành vi sau đây:
a) Chuyển giao người dưới 16 tuổi để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
b) Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
c) Chuyển giao người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
d) Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
đ) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi chuyển giao người theo hướng dẫn tại điểm a và điểm c khoản này.
Trong đó,
Mục đích nhân đạo ở đây là mục đích tốt đẹp, vì lợi ích của người dưới 16 tuổi, hầu hết là trường hợp cho nhận con nuôi theo quy định của pháp luật nuôi con nuôi. Những trường hợp tiếp nhận hoặc chuyển giao người dưới 16 tuổi vì mục đích nhân đạo sẽ không phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi.
Thủ đoạn khác là các thủ đoạn như: bắt cóc; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi; đầu độc nạn nhân; lợi dụng việc môi giới hôn nhân, môi giới đưa người đi lao động ở nước ngoài; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng tình thế bị lệ thuộc; lợi dụng tình thế dễ bị tổn thương hoặc tình trạng quẫn bách của nạn nhân (ví dụ: lợi dụng tình trạng nạn nhân có người thân bị bệnh hiểm nghèo cần tiền chữa trị ngay, nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng) để thực hiện một trong các hành vi mua bán người đã nêu trên.
Mục đích:
Ngoài mục đích kiếm lời về kinh tế, pháp luật còn quy định mục đích có lợi ích khác của người phạm tội, cụ thể như:
– Chuyển giao cho người khác để thực hiện các hoạt động bóc lột tình dục (như tổ chức cho nạn nhân bán dâm, đưa nạn nhân đến các cơ sở chứa mại dâm để bán dâm, sử dụng nạn nhân để sản xuất ấn phẩm khiêu dâm, trình diễn khiêu dâm, làm nô lệ tình dục…) hoặc tiếp nhận nạn nhân để phục vụ nhu cầu tình dục của chính mình.
– Để cưỡng bức lao động là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc nạn nhân lao động trái ý muốn của họ.
– Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân là trường hợp chuyển giao, tiếp nhận hoặc tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp nạn nhân để chuyển giao nhằm lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. Bộ phận cơ thể là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định của con người. Ví dụ: Nguyễn Văn A đã chuyển giao Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn B để B lấy giác mạc của C (trên thực tế B chưa có hành vi lấy giác mạc của C).
– Các mục đích vô nhân đạo khác là sử dụng nạn nhân để làm thí nghiệm, buộc nạn nhân phải đi ăn xin hoặc sử dụng nạn nhân vào các mục đích tàn ác khác.
Hậu quả
Hậu quả là người dưới 16 tuổi bị hại đã bị đem ra mua, bán. Nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi tìm người, liên hệ nơi bán, thỏa thuận giá cả nhưng chưa thực hiện việc mua bán thì phạm tội chưa đạt, vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nói cách khác, tội phạm hoàn thành khi hậu quả nạn nhân bị mua bán xảy ra, nếu hậu quả đó chưa xảy ra người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về trường hợp phạm tội chưa đạt.
Dấu hiệu độ tuổi của nạn nhân là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này. Nếu nạn nhân dưới 16 tuổi, người phạm tội mới cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân là người từ đủ 16 tuổi thì người phạm tội sẽ cấu thành tội phạm mua bán người theo Điều 150 Bộ luật Hình sự.
2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội danh này là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự với độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự từ đủ 14 tuổi trở lên theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử tội phạm, tội phạm mua bán người thường được thực hiện bởi chủ thể là người đã thành niên (người từ đủ 18 tuổi trở lên).
2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội mua bán người được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội hoàn toàn nhân thức được hậu quả xâm hại đến danh dự nhân phẩm, thậm chí là thân thể, tính mạng của nạn nhân, coi nạn nhân làm công cụ để kiếm lợi ích. Tuy nhận thức rõ hậu quả như vậy nhưng người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện tội phạm, mong muốn để cho hậu quả đó xảy ra.
3. Khung hình phạt của tội mua bán người dưới 16 tuổi
Tại Điều 151 Bộ luật Hình sự quy định 03 khung hình phạt chính là 01 hình phạt bổ sung, theo đó:
– Khung 1: phạt tù từ 07 năm đến 12 năm trong trường hợp hành vi phạm tội không có tình tiết tăng nặng.
– Khung 2: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm trong trường hợp hành vi phạm tội có một trong số những tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 2 Điều 151 Bộ luật hình sự 2015.
– Khung 3: phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân trong trường hợp hành vi phạm tội có một trong sô những tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 3 Điều 151 Bộ luật hình sự 2015.
– Hình phạt bổ sung: phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trên cơ sở đó, nhận thấy tội mua bán người dưới 16 tuổi không chỉ là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà còn là hành vi phi nhân tính, xâm phạm trực tiếp đến sự phát triển thể chất, tinh thần và tương lai của trẻ em – những mầm non của xã hội. Việc đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh loại tội phạm này là trách nhiệm không chỉ của cơ quan nhà nước mà còn của toàn xã hội. Mỗi cá nhân, gia đình và tổ chức cần nâng cao nhận thức, cảnh giác trước những thủ đoạn tinh vi, đồng thời tuyên truyền, giáo dục pháp luật rộng rãi để trẻ em được sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh và nhân văn.
Trên đây là toàn bộ nội dung về “Tội mua bán người dưới 16 tuổi” theo quy định của Bộ luật Hình sự 2017 mà Luật Dương Gia – Chi nhánh Đà Nẵng gửi đến quý khách hàng. Trường hợp quý khách hàng vẫn còn đang thắc mắc hoặc cần được tư vấn khác, vui lòng liên hệ theo số hotline 19006568 để được hỗ trợ.
CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0931548999; 02367300899