Hiện nay, các hành vi xâm hại tình dục ở trẻ em có chiều hướng ngày càng gia tăng, chủ yếu tập trung vào các tội như: tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm đối với người từ đủ 13 đến dưới 15 tuổi, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi,… Đặc biệt, tình hình tội phạm dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đang là vấn đề đáng báo động, xảy ra ngày càng nhiều, hành vi xâm hại ngày càng tinh vi, diễn biến phức tạp. Hậu quả của tội phạm dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm mà còn tác động lâu dài, để lại hậu quả nặng nề về tâm sinh lý đối với sự phát triển của trẻ em về sau. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
– Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định về các tội xâm hại tình dục trong Bộ luật Hình sự năm 2015.
1. Cấu thành tội phạm của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định trong Bộ luật hình sự như sau:
Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm nạn nhân tự sát.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Cấu thành tội phạm gồm:
* Mặt khách thể của tội phạm:
tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 146 Bộ luật hình sự năm 2015, nằm trong chương XIV quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Như vậy, khách thể của tội phạm này là quan hệ thân nhân thể hiện nhân phẩm, danh dự của trẻ em và quyền được phát triển bình thường về tình dục của người dưới 16 tuổi.
– Đối tượng tác động của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được xác định là trẻ em có độ tuổi dưới 16 tuổi, không phụ thuộc vào giới tính của họ là nam, nữ. Người dưới 16 tuổi được xác định là trẻ em, chưa phát triển toàn diện về thể chất, tâm, sinh lý nên cần được quan tâm, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ. Do vậy, hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi sẽ gây nguy hiểm cho sự phát triển bình thường của các em, cho nên đối tượng này luôn được pháp luật bảo vệ đồng thời có chế tài nghiêm khắc đối với hành vi phạm tội.
* Mặt khách quan của tội phạm:
Theo quy định của khoản 1 điều 146 thì hành vi khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là “hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác”.
Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP quy định về hành vi dâm ô như sau:
“3. Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây:
a) Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi;
b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi…) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
c) Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
d) Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác;
đ) Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy… của người dưới 16 tuổi).”
Như vậy, hành vi dâm ô rất đa dạng, có thể kể đến là hành vi của người phạm tội sờ mó bộ phận sinh dục của nạn nhân như âm hộ, dương vật hoặc những bộ phận nhạy cảm khác của nạn nhân như mông, hậu môn, vú hoặc người phạm tội bắt nạn nhân sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của mình nhằm thỏa mãn ham muốn dục vọng nhưng không có ý định giao cấu hay thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân.
Dấu hiệu bắt buộc của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là không thực hiện hành vi giao cấu hay quan hệ tình dục khác với nạn nhân, nếu có ý định giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác thì không cấu thành tội phạm này mà tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi hoặc tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình là xâm hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới 16 tuổi, gây ảnh hưởng xấu đến đạo đức xã hội, lối sống văn hóa, truyền thống nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
* Mặt chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không phân biệt giới tính, đó có thể là nam giới hoặc nữ giới, chỉ cần là người đủ 18 tuổi trở lên và không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điểu 21 BLHS năm 2015). Đồng thời, nạn nhân của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi cũng có thể là trẻ em nam hoặc trẻ em nữ. Nạn nhân có thể bị người phạm tội cưỡng ép, buộc phải thực hiện hành vi dâm ô nhưng cũng có thể đồng tình để người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô hoặc tự nguyện để người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô với mình.
2. Hình phạt của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
– Hình phạt quy định tại Khoản 1 Điều 146:
Đối với trường hợp phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo quy định tại Khoản 1 Điều 146 BLHS năm 2015 thì đây là hành vi của người từ đủ 18 tuổi trở lên dâm ô 01 lần đối với 01 người dưới 16 tuổi và không thuộc bất kỳ trường hợp nào quy định tại Khoản 2, 3 Điều 146 với mức phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Đây là loại tội phạm ít nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với tội phạm này thì ngoài việc căn cứ vào các căn cứ để quyết định hình phạt quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì còn cần phải xem xét đến các yếu tố khác như độ tuổi của nạn nhân, thái độ tâm lý của nạn nhân cũng như những hậu quả xã hội của hành vi tội phạm mang lại.
– Hình phạt quy định tại Khoản 2 Điều 146:
Đây là khung hình phạt có mức độ nặng hơn khung hình phạt quy định tại Khoản 1 Điều này và có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm đối với các trường hợp:
+ Phạm tội có tổ chức: Phạm tội có tổ chức bao gồm nhiều người cùng tham gia, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có tổ chức, những người phạm tội chỉ có ý định dâm ô chứ không có ý định giao cấu với nạn nhân.
+ Phạm tội 02 lần trở lên: khi áp dụng tình tiết phạm tội này, cần chú ý, nếu phạm tội 02 lần trở lên nhưng chỉ có 01 lần nạn nhân dưới 16 tuổi, còn các lần khác nạn nhân đã đủ 16 tuổi trở lên thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật. Tuy nhiên, mức hình phạt cụ thể phải cao hơn trường hợp người phạm tội chỉ dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 01 lần. Nhưng dù có xử phạt nghiêm thì mức hình phạt tối đa cũng không được quá 03 năm tù.
+ Đối với 02 người trở lên: khi áp dụng tình tiết này cần chú ý, nếu phạm tội đối với 02 người trở lên nhưng chỉ có 01 người dưới 16 tuổi, còn các người khác đã đủ 16 tuổi trở lên thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật. Tuy nhiên, mức hình phạt cụ thể phải cao hơn trường hợp người phạm tội chỉ dâm ô đối với 01 người.
+ Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh: Trong trường hợp này, người phạm tội là người có trách nhiệm với người bị hại, xuất phát từ quan hệ huyết thống như bố mẹ với con cái, quan hệ giáo dục như thầy giáo đối với học sinh, quan hệ chữa bệnh như bác sĩ đối với bệnh nhân,… Chỉ khi người phạm tội lợi dụng sự chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh để thực hiện hành vi dâm ô với người được chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh thì mới thuộc trường hợp phạm tội này.
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
+ Tái phạm nguy hiểm.
– Hình phạt quy định tại Khoản 3 Điều 146:
Mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại Khoản 3 là 12 năm tù, đây là trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng. Khung hình phạt thứ ba áp dụng trong trường hợp phạm tội thỏa mãn một trong hai tình tiết tăng nặng định khung kèm đó là gây rối loạn tâm thành và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên và làm nạn nhân tự sát.
Với tình tiết “làm nạn nhân tự sát”, nếu nạn nhân vì bị dâm ô mà tự sát thì người đã dâm o onạn nhân sẽ phạm tội thuộc trường hợp “làm nạn nhân tự sát”. Chỉ cần xác định nạn nhân bị dâm ô có hành vi tự sát là cơ sở để áp dụng tình tiết này, việc nạn nhân có bị chết hay không, không phải là dấu hiệu bắt buộc để xác định tình tiết phạm tội này.
Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về tội dâm ô người dưới 16 tuổi. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.