Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

nguyen-tac-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong Bộ luật Dân sự, tạo cơ sở pháp lý trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể trong xã hội, đảm bảo trật tự, ổn định xã hội. Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ra đời nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong những trường hợp có thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác mà người bị thiệt hại và người gây ra thiệt hại không có việc giao kết hợp đồng trước đó hoặc có hợp đồng nhưng hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại không thuộc hành vi thực hiện hợp đồng. Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải tuân thủ những nguyên tắc luật định. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích nội dung về nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật Dân sự năm 2015.

1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự phát sinh bên ngoài, không phụ thuộc hợp đồng mà chỉ cần tồn tại một hành vi vi phạm pháp luật dân sự, cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi này cũng không liên quan đến bất cứ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự. Do đó nó mang đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm dân sự đó là: Là sự cưỡng chế của Nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng; chỉ áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm; luôn mang lại hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm. Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn mang một số đặc điểm sau:

– Thứ nhất, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không được xác định trước, chỉ khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì khi đó chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và chủ thể được bồi thường mới được xác định.

– Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng có thể áp dụng đối với người thứ ba theo như quy định tại Điều 586 BLDS năm 2015, theo đó có nhiều trường hợp người gây ra thiệt hại không phải bồi thường thiệt hại mà chủ thể bồi thường là người thứ ba. Đối với cá nhân, nếu cá nhân dưới 18 tuổi và không có tài sản đề bồi thường thì cha, mẹ sẽ bồi thường. Tương tự, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình nếu những người này không có đủ tài sản để bồi thường.

– Thứ ba, trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng có thể thực hiện theo ý chí của cá nhân và luôn liên quan tới tài sản. Nội dung của đặc điểm này được thể hiện rõ ràng tại khoản 1 Điều 585 BLDS năm 2015 như sau: Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Theo đó, về nguyên tắc, khi phát sinh quan hệ bồi thưởng thiệt hại ngoài hợp đồng, các chủ thể có quyền thỏa thuận về mọi vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đỏ, ví dụ như mức bồi thường là bao nhiêu, phương thức bồi thường, hình thức bồi thường như thế nào. Việc thỏa thuận này có thể được xảy ra trước, trong hoặc sau khi tranh chấp về bồi thường thiệt hại đã được Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, các vấn đề pháp lý có liên quan đến bồi thường thiệt hại sẽ được giải quyết theo quy định pháp luật.

– Thứ tư, hậu quả của người bị áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang tính vật chất thể hiện chức năng khôi phục những hậu quả về mặt vật chất cho người bị thiệt hại. Xuất phát từ đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khắc phục thiệt hại đã gây ra thì cụ thể hóa khả năng khắc phục thiệt hại chính là những những giá trị vật chất mà người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Hay nói cách khác là những thiệt hại mà bên gây thiệt hại gây ra sẽ được quy đổi thành giá trị vật chất nhất định như tiền để thực hiện việc đền bù nhằm cho bên bị thiệt hại nhằm khắc phục thiệt hại đã xảy ra.

2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Mục đích của việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là khắc phục những tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu khi có hành vi gây thiệt hại. Vì vậy, việc quy định những nguyên tắc về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có vai trò quan trọng. Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, Điều 585 BLDS năm 2015, quy định:

Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.

Cụ thể:

– Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời:

Bồi thường toàn bộ được hiểu là thiệt hại xảy ra bao nhiêu thì phải được bồi thường bấy nhiêu. Đây là nguyên tắc được áp dụng trong hầu hết các vụ việc liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm…. phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS năm 2015 quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó. Bên cạnh đó, việc thiệt hại xảy ra trên thực tế có được bồi thường toàn bộ hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: người bị thiệt hại có đưa ra được đầy đủ các căn cứ chứn minh cho tất cả các loại thiệt hại không; người bị thiệt hại có lỗi đối với thiệt hại xảy ra với mình không; các bên có thỏa thuận về mức bồi thường hay không. 

Với trường hợp thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, giá trị của tài sản bị xâm phạm đều có thể được xác định cụ thể bằng các đơn vị định lượng. Trong trường hợp đối tượng bị xâm phạm là các giá trị nhân thân như sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín thì việc xác định thiệt hại sẽ rất khó bởi việc quy đổi giữa các giá trị nhân nhân và giá trị vật chất là tương đối. Vì vậy, khi các giá trị nhân thân bị xâm phạm thì mức bồi thường thiệt hại là tương đối.

– Nguyên tắc bồi thường thiệt hại kịp thời:

Bồi thường kịp thời được hiểu là ngay khi thiệt hại xảy ra, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải nhanh chóng khắc phục tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Việc bồi thường này thậm chí còn phải được thực hiện trước khi tranh chấp về bồi thường thiệt hại được Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Thực tế, để thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Tòa án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.

– Nguyên tắc thỏa thuận về mức bồi thường:

Về nguyên tắc, khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể có quyền thỏa thuận về mọi vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đó. Do đó, trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, các vấn đề pháp lý có liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật.

– Về việc giảm và thay đổi mức bồi thường thiệt hại:

+ Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Theo đó, người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện song song với nhau, sau đây: Do không có lỗi hoặc có lỗi vô ý mà gây thiệt hại; Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.

+ Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thưởng thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại. Như vậy bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường cho phù hợp.

– Nguyên tắc “khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra:

Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Trên cơ sở sự công bằng, thiệt hại đến đâu bồi thường đến đó, nhưng trong nhiều trường hợp bên bị thiệt hại lại là bên có phần lỗi dẫn đến thiệt hại. Luật quy định bên bị thiệt hại sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

– Nguyên tắc bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.

Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon