Nguyên tắc suy đoán vô tội là gì? Suy đoán vô tội trong giai đoạn điều tra

nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-la-gi-suy-doan-vo-toi-trong-giai-doan-dieu-tra

BLTTHS năm 2003 không có điều luật quy định cụ thể những ai là người bị buộc tội. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đây là nhóm người tham gia tố tụng có vị trí yếu thế hơn hẳn khi đặt trong mối quan hệ với các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Vì vậy, quyền và lợi ích của họ rất dễ bị xâm phạm. Năm 2015 BLTTHS mới được ban hành không chỉ bổ sung diện người bị buộc tội là người bị bắt (Điều 58) mà còn quy định bổ sung một số quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng tại các Điều 59, Điều 60 và Điều 61 nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời chứng cứ buộc tội làm cơ sở cho việc bào chữa, cũng như trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội, quyền được suy đoán vô tội[1]. Đồng thời BLTTHS năm 2015 cũng liệt kê một cách cụ thể những người tham gia tố tụng là người bị buộc tội bao gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

1. Nguyên tắc suy đoán vô tội là gì?

Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng  phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.

Như vậy, quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội được hiểu là:

Người bị buộc tội sẽ được coi là người không có tội (được suy đoán vô tội) cho đến khi bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực đó được quyết định phải phù hợp với các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Khi đó, người bị buộc tội mới có thể coi là có tội trong việc thực hiện tội phạm, cũng như chịu hình phạt.

Người bị buộc tội sẽ phải được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kết luận là không có tội (được giải thích theo hướng có lợi) khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định ( khi có bất cứ sự không chắc chắn nào về lỗi của họ).

Xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội, các cơ quan tiến hành tố tụng[2]:

a) Không được chuyển trách nhiệm chứng minh lên bị can, bị cáo; bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh tội của mình;

b) Không chứng minh được tội của bị can, bị cáo có nghĩa là chứng minh sự vô tội của bị can, bị cáo;

c) Tất cả mọi nghi ngờ được giải thích có lợi cho bị can, bị cáo;

d) Bản án kết tội không thể dựa trên giả thiết

Như vậy, chủ thể của quyền được suy đoán vô tội là người bị buộc tội, còn chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền này là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quyền được suy đoán vô tội có được bảo đảm hay không không chỉ phục thuộc vào cơ chế bảo đảm từ phía Nhà nước (thông qua các quy định pháp luật được ghi nhận) mà còn được phản ánh qua việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan, người được trao quyền.

Để buộc tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người, cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải dựa trên những căn cứ và theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định nhằm không để lọt tội phạm song cũng không làm oan người vô tội. Khi họ thực hiện tốt những quy định của pháp luật thì quyền được suy đoán vô tội nói riêng và các quyền khác của người bị buộc tội nói chung mới có thể được bảo đảm một cách tối ưu nhất.

Tóm lại, chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán quyết, xác định một người có tội bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Chừng nào chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị buộc tội vẫn là người vô tội. Các cơ quan tố tụng một mặt phải đối xử với họ như người không có tội, mặt khác, phải tạo mọi điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác.

2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn điều tra

Trong giai đoạn điều tra, cơ quan có trách nhiệm trong việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội là Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và Viện kiểm sát. Việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra được khái quát thành một nguyên tắc hoàn toàn mới so với BLTTHS năm 2003.

Theo đó, Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tuân thủ pháp luật khi tiến hành hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS 2015. Mọi hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành khách quan, toàn diện và đầy đủ; phát hiện nhanh chóng, chính xác mọi hành vi phạm tội, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án[3].

Khi tiến hành các hoạt động điều tra, quyền được suy đoán vô tội nói riêng, quyền con người, quyền công dân khác của bị can nói chung rất dễ bị xâm phạm. Rất nhiều trường hợp khi tiến hành các hoạt động điều tra để thu thập chứng cứ, có những Điều tra viên chỉ chú trọng đến việc tìm kiếm những chứng cứ buộc tội mà bỏ qua chứng cứ khác có thể gỡ tội cho bị can.

Nguyên nhân xuất phát từ tư tưởng “lỡ bắt rồi nên vẫn cố chứng minh để xử” thậm chí đến khi không chứng minh được thì lại áp dụng theo Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 nói là miễn trách nhiệm hình sự cho họ vì hành vi của họ không gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, trong khi thực tế là họ không có tội[4]. Điều đó đi ngược lại với tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội.

Đáng lẽ, “không chứng minh được tội của bị can, có nghĩa là chứng minh sự vô tội của bị can” đằng này lại bằng mọi cách để khép bị can vào một tội nào đó thì quyền được suy đoán vô tội của họ sẽ không được bảo đảm. Đây là một trong những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng xâm hại nghiêm trọng không chỉ đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân mà còn xâm phạm đến tính đúng đắn của hoạt động tư pháp, gây mất niềm tin của quần chúng nhân dân vào cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mặt khác, tư tưởng “cố chứng minh để xử” đã dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng trong hoạt động hỏi cung bị can.

Sau vụ án oan sai gây chấn động dư luận vào năm 2014 – vụ ông Nguyễn Thanh Chấn bị đi tù oan 10 năm, Quốc Hội đã phải ra Nghị quyết giám sát về tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật (Nghị quyết số 74/2014/QH 13 ngày 24/6/2014 của Quốc Hội về Chương trình hoạt động giám sát của Quốc Hội năm 2015) và thành lập Đoàn giám sát 11 địa phương (Nghị quyết số 821/NQ – UBTVQH13 ngày 17/10/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội).

Những kết quả thể hiện trong Báo cáo kết quả giám sát đã phản ánh rất rõ nét tình hình bức cung, mớm cung, dùng nhục hình trong khi tiến hành hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra: “còn để xảy ra một số trường hợp bức cung, dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và trong một số trường hợp chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến oan, sai…

Đáng lưu ý để xảy ra một số vụ dùng nhục hình gây hậu quả nghiêm trọng, làm chết người, gây bức xúc trong dư luận như các vụ: Điều tra viên (Công an Sóc Trăng) đã dùng nhục hình ép bị can Trần Văn Đở và 06 bị can khác phải khai theo ý chí của mình là đồng phạm trong vụ giết người, cướp tài sản dẫn đến việc khởi tố, bắt giam oan 07 người; 05 Công an ở Tuy Hòa (Phú Yên) dùng nhục hình dẫn đến cái chết của Ngô Thanh Kiều. Điều tra viên (Công an Bắc Giang) nhục hình nghiêm trọng đối với bị can Nguyễn Thị Nguyệt Nga. Cả ba vụ nhục hình trên đều được khởi tố, điều tra xử lý hình sự. Có nơi Điều tra viên còn mớm cung khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can.

Chẳng hạn, Điều tra viên đã mớm cung bị can Nguyễn Toàn Thắng (Bình Phước) bị khởi tố về tội hiếp dâm trẻ em, “nếu nhận tội thì sẽ cho về thi tốt nghiệp phổ thông và đại học” trong khi kết luận giám định và các tài liệu khác không đủ căn cứ buộc tội. Qua giám sát cho thấy, các hành vi bức cung, dùng nhục hình thường diễn ra ngay sau khi bắt, tạm giữ hoặc khi lấy lời khai mà đối tượng không nhận tội. Việc tố giác bức cung, nhục hình và việc điều tra chứng minh việc bức cung, dùng nhục hình thường gặp khó khăn do hành vi phạm tội xảy ra tại địa điểm, bối cảnh đặc biệt, khép kín, chỉ có người lấy lời khai và người bị tình nghi phạm tội. Nhiều trường hợp khi ra tòa bị cáo mới khai bị bức cung, nhục hình hoặc khi người bị tạm giữ chết và có tố cáo gay gắt thì mới được phát hiện (như các vụ: Nguyễn Viết Lợi và đồng phạm bị bắt giữ về tội “Trộm cắp tài sản” giam tại Nhà tạm giữ Công an quận Hải Châu (Đà Nẵng); khi ra tòa bị cáo Lợi khai bị công an ép cung và bị đánh, bị cáo được đưa đi điều trị tại Trung tâm y tế quận Hải Châu 10 ngày thì ra viện.

Trong vụ án này, còn có bị can Võ Tấn Tâm bị chết trong Nhà tạm giữ Công an quận Hải Châu”. Để khắc phục được thực trạng kể trên, hoạt động điều tra hỏi cung bị can được bổ sung quy định mới quan trọng. Cụ thể: việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (khoản 6 điều 183 BLTTHS năm 2015). Quy định bắt buộc phải ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong hoạt động hỏi cung là thực sự cần thiết giúp hạn chế một cách tối đa nhất tình trạng bức cung, mớm cung, dùng nhục hình, từ đó xóa bỏ định kiến coi bị can là người có tội trong tư tưởng ở một số cán bộ điều tra, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền được suy đoán vô tội của bị can.

Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định chế độ quản lý giam giữ đối với người bị tạm giam, tạm giữ khác với chế độ của phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù cũng thể hiện cách nhìn nhận đúng đắn về tư cách của bị can khác với phạm nhân. Đối với bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam thì trước đây, trong BLTTHS năm 2003 có riêng một điều luật quy định (Điều 89). Tuy nhiên, nội dung của điều luật này không còn được tiếp tục ghi nhận trong BLTTHS năm 2015 nữa.

Điều đó không đồng nghĩa với việc bị can khi bị tạm giữ hoặc tạm giam không còn được áp dụng chế độ khác đối với người đang chấp hành hình phạt tù vì cho tới thời điểm này, chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nên quyền được suy đoán vô tội của bị can vẫn cần được bảo đảm. Họ hoàn toàn có khả năng sẽ được Tòa án tuyên vô tội chính vì thế, ngay từ chế độ mặc, ở, tư trang, chế độ lao động… cũng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng nhằm tạo ra sự phân định tư cách giữa một bên là người có tội (phạm nhân đang chấp hành án phạt tù) và một bên là người bị buộc tội. Ví dụ về chế độ mặc, tư trang: “trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được sử dụng quần áo, chăn, chiếu, màn và các đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt của cá nhân; nếu thiếu thì cơ sở giam giữ cho mượn”[5]. Còn đối với phạm nhân sẽ “được cấp quần áo theo mẫu thống nhất, khăn mặt, chăn, chiếu, màn, dép, mũ hoặc nón, xà phòng; phạm nhân nữ được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ”[6].

Đồng thời, chế độ lao động giữa hai chủ thể này cũng rất khác: đối với phạm nhân là bắt buộc (điều 29 Luật thi hành án hình sự năm 2015) còn đối với người bị tạm giữ, tạm giam thì đây không phải là quy định bắt buộc…

Ngoài ra, trong giai đoạn điều tra, quyền được suy đoán vô tội của bị can còn được thể hiện một cách gián tiếp thông qua quyết định trả tự do cho người bị bắt (Khoản 1 Điều 114 BLTTHS năm 2015); quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng khi thấy không còn cần thiết (Điều 125 BLTTHS năm 2015) và đặc biệt là quyết định đình chỉ điều tra. Cơ quan điều tra sẽ ra phải quyết định đình chỉ điều tra khi đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm (Điểm b, Khoản 1 Điều 230 BLTTHS năm 2015). Đây cũng là cách giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.

[1] PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn, Những quy định mới về người bị buộc tội trong BLTTHS năm 2015, Kỉ yếu hội thảo năm 2016 “Những điểm mới của BLTTHS năm 2015”, tr.

[2] TS. Nguyễn Văn Tuân, Những nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS năm 2015, Kỉ yếu hội thảo năm 2016: Những điểm mới trong BLTTHS năm 2015, tr.

[3] Điều 19, BLTTHS năm 2015.

[4] Xem bài viết: Phải tìm chứng cứ gỡ tội trước khi buộc tội đăng trên website:

https://laodong.vn/phap-luat/phai-tim-chung-cu-go-toi-truoc-khi-buoc-toi-364776.bld

[5] Điều 28, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015

[6] Điều 43, Luật thi hành án hình sự năm 2010

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon