Tố tụng hình sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù, việc điều tra, truy tố, xét xử và giải quyết vụ án luôn gắn liền với vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Một trong những quyền quan trọng của người bị buộc tội dễ bị xâm phạm nhất đó chính là quyền được suy đoán vô tội. Đây là một quyền khái quát và không được ghi nhận trực tiếp trong BLTTHS mà nội dung của quyền này được thể hiện thông qua nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội.
1. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn truy tố
Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có trách nhiệm bảo đảm quyền được suy đoán vô tội cho bị can. Giai đoạn này yêu cầu Viện kiểm sát luôn đặt ra hai khả năng bị can là người vô tội (để ra quyết định đình chỉ vụ án) hoặc nếu có tội thì phải chứng minh rõ (thể hiện thông qua nội dung của bản cáo trạng)
Trước hết, đối với khả năng bị can là người vô tội. Giống như giai đoạn điều tra, trong giai đoạn này, yêu cầu “tất cả mọi nghi ngờ được giải thích có lợi cho bị can” được thể hiện qua việc quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát (Điều 248 BLTTHS năm 2015).
heo đó, Viện kiểm sát sẽ quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của BLTTHS năm 2015 hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự 2015. Trong số đó, có căn cứ “không có sự việc phạm tội” (Khoản 1 Điều 157) và “hành vi không cấu thành tội phạm” (Khoản 2 Điều 157).
Khi Viện kiểm sát quyết định đình chỉ vụ án dựa vào hai căn cứ nêu trên sẽ đồng nghĩa với việc họ đang thực hiện đúng trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của bị can “bị can sẽ phải được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kết luận là không có tội (thông qua quyết định đình chỉ vụ án) khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định”.
Khi “hành vi không cấu thành tội phạm” tồn tại, việc chấm dứt sự buộc tội đối với bị can tưởng chừng là điều đương nhiên, dễ hiểu. Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn “có trường hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra còn đùn đẩy trách nhiệm trong việc đình chỉ điều tra.
Có nơi Viện kiểm phát hiện hành vi của bị can không cấu thành tội phạm hoặc không có sự việc phạm tội nhưng Viện đã không ra quyết định đình chỉ mà trả hồ sơ điều tra bổ sung để yêu cầu Cơ quan điều tra đình chỉ dẫn đến chậm trả tự do cho bị can”[1]. Việc làm này có ảnh hưởng không nhỏ đến quyền được suy đoán vô tội của bị can.
Ngược lại, khi nghiên cứu hồ sơ, nếu Viện kiểm sát thấy đã đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can thì ra quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Nội dung của bản cáo trạng phải đáp ứng được đầy đủ yêu cầu mà BLTTHS đưa ra. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể và đầy đủ hơn nội dung của quyết định truy tố bị can, nhằm bảo đảm tính pháp lý của quyết định này, giúp Kiểm sát viên tranh tụng, luận tội tại phiên tòa có căn cứ pháp lý, là cơ sở để Tòa án đưa ra phán quyết đúng pháp luật[2], cụ thể là: phải ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội;
Ngoài những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, cần xác định rõ tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bên cạnh những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phải ghi rõ đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của bản cáo trạng ngoài tội danh và điều, khoản của Bộ luật hình sự phải ghi rõ điểm của điều, khoản được áp dụng để bảo đảm tính chính xác cao khi truy tố bị can (Điều 243).
Tuy nhiên, ngay cả khi đã có quyết định truy tố bị can thì bị can đó vẫn được đảm bảo quyền được suy đoán vô tội bởi vì vẫn chưa có bản án kết tội của Tòa án đối với họ đã có hiệu lực pháp luật và sự buộc tội của Viện kiểm sát có thể đúng hoặc sai.
Thực tiễn cho thấy vẫn tồn tại “nhiều trường hợp Viện kiểm sát truy tố chưa đúng tội danh, chưa đúng điều khoản của BLHS, thiếu chứng cứ buộc tội, phải rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố…; có trường hợp Viện kiểm sát truy tố bị Tòa án tuyên không phạm tội và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Nguyên nhân dẫn đến truy tố oan, sai là do Viện kiểm sát nhận định, đánh giá chứng cứ vụ án chưa khách quan, thiếu toàn diện, có những trường hợp chưa phân biệt rõ vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế với hành vi phạm tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; chưa đánh giá đúng ý thức chủ quan, lỗi của người bị hại và các nguyên nhân khách quan khác dẫn đến hành vi phạm pháp”[3].
Ngoài ra, để bảo đảm không truy tố oan người vô tội, Điều 245 BLTTHS năm 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền ra quyết định trả hồ hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy: Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của BLTTHS mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác; có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Tòa án là cơ quan có trách nhiệm bảo đảm quyền được suy đoán vô tội cho bị can, bị cáo. Việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của bị can, bị cáo được thể hiện như sau:
Cũng như các giai đoạn trên, quyền được suy đoán vô tội được thể hiện một cách gián tiếp thông qua việc quy định những trường hợp trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung (Điều 280 và Điểm c, Khoản 6 Điều 326); ra quyết định đình chỉ vụ án (Điều 282); Viện kiểm sát rút quyết định truy tố (Điều 285).
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, không được chuyển trách nhiệm chứng minh lên bị cáo;bị can bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh tội của mình. Để đảm bảo quyền chứng minh mình vô tội, BLTTHS năm 2015 trao cho bị cáo quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử (được biết mình bị xét xử về tội gì để có thể chuẩn bị cho việc bào chữa)
Quyền bào chữa; quyền được tham gia phiên tòa và chỉ được xét xử vắng mặt bị cáo khi họ trốn tránh và việc truy nã không có kết quả, không triệu tập được bị cáo, hoặc sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử…
Đồng thời, khi tham gia phiên tòa, bị cáo là người được tại ngoại và bị cáo đang bị tạm giam được sử dụng thường phục nhưng phải đảm bảo sự trang nghiêm còn bị cáo là người đang chấp hành hình phạt tù khi ra phiên tòa sử dụng trang phục dành riêng cho họ theo quy định của Chính phủ[4]. Như vậy, chỉ thông qua hình thức là bộ trang phục mà người đó mặc cũng giúp phân biệt rõ ràng giữa người có tội và bị cáo.
Khoản 4 Điều 326 quy định về việc nghị án: “Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội;…”. Dù không quy định rõ căn cứ này là gì, nhưng có thể hiểu theo nghĩa rộng là trong trường hợp mọi nghi ngờ khi giải thích và áp dụng pháp luật đều phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
Trường hợp bị cáo không phạm tội thì phải giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Khi một người được tha bổng vì không có tội thì mọi biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự được áp dụng trước đó đối vứi họ phải được hủy bỏ[5].
Chính vì vậy, Điều 328 BLTTHS năm 2015 quy định Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo trong trường hợp bị cáo không có tội đang bị tạm giam nếu họ không bị tạm giam vì một tội khác.
Nguyên tắc suy đoán vô tội chỉ rõ: Khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án thì bị can, bị cáo không bị coi là có tội. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của bản án đối với quá trình tố tụng hình sự cùng ý nghĩa to lớn của nó đối với việc đảm bảo quyền được suy đoán vô tội. Bản án hình sự là hình thức pháp lý của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự chỉ do Toà án ban hành trong đó tuyên bố một người phạm tội hoặc không phạm tội.
Vì bản án không được dựa trên những chứng cứ giả định nên mọi quyết định của Toà án trong bản án phải dựa trên hệ thống chứng cứ được thu thập một cách khách quan, đầy đủ, hợp pháp và toàn diện trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự và phải được đưa ra xem xét, đánh giá công khai, dân chủ, bình đẳng tại phiên toà. Sẽ không có một bản án chính xác, giải quyết triệt để, toàn diện các vấn đề của vụ án hình sự nếu chỉ dựa vào suy luận chủ quan, định kiến của hội đồng xét xử và các cơ quan tiến hành tố tụng.
Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định sơ thẩm sẽ chưa có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên, chỉ đến khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà chủ thể có quyền kháng cáo không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị thì khi đó bản án, quyết định sơ thẩm mới có hiệu lực pháp luật. Như vậy, nếu một người bị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên có tội thì có thể quyền được suy đoán vô tội của họ vẫn được bảo đảm trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của bị cáo được thể hiện qua quy định:
Điểm c, Khoản 1 Điều 351 BLTTHS năm 2015 quy định: Trường hợp bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng cáo, bị kháng nghị nếu vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án, quyết định không có lợi cho bị cáo. Nếu sự vắng mặt của bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan và sự vắng mặt đó không gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.
Vì trong thực tiễn, việc Tòa án cấp phúc thẩm có những nhận định khác với Tòa án cấp sơ thẩm là hoàn toàn có thể xảy ra. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng nhưng quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm lại sai. Chính vì vậy, vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm sẽ đem lại những bất lợi nhất định cho bị cáo nhất là trong trường hợp họ có thể sẽ phải đối mặt với một bản án hoặc quyết định không có lợi. Đây là quy định giúp cho bị cáo có thể tham dự phiên tòa để bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ngoài ra, trong phạm vi thẩm quyền của mình Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án khi có các căn cứ quy định tại ĐIều 359 BLTTHS năm 2015. Quy định này một lần nữa khẳng định rằng: bị cáo được coi là chưa có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật[6]./
[1] UBTVQH, Báo cáo kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật”, năm 2015
[2] Hoàng Nghĩa Mai, “Chế định truy tố”, Sách “Những điểm mới cơ bản trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, NXB Chính trị, quốc gia, năm 2016, tr.306
[3] UBTVQH, Báo cáo kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật”, năm 2015
[4] Điều 1, NGhị quyết số 743/2004/NQ-UBTVQH11 quy định về trang phục của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự
[5] TS. Nguyễn Thành Long, Sách: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr.134
[6] TS. Nguyễn Thành Long, Sách: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr.139