Miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

mien-tru-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong

Về nguyên tắc, việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật tạo ra thiệt hại sẽ dẫn đến áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào có thiệt hại xảy ra cũng bị áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều này phản ánh tính thực tế của hành vi cũng như tính nhân văn từ quy định pháp lý. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập tới căn cứ miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng việc nêu khái niệm, đặc điểm miễn trừ trách nhiệm dân sự; quy định của pháp luật về các căn cứ miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Căn cứ pháp lý

1. Khái niệm, đặc điểm của miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

1.1. Khái niệm miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Thuật ngữ miễn trừ trách nhiệm dân sự hay miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại (sau đây được viết tắt là TNBTTH) ngoài hợp đồng không phải là mới đối với các luật gia và những nhà nghiên cứu luật học. Mặc dù đối với các quy định hiện hành, thuật ngữ miễn trừ trách nhiệm còn xuất hiện khá khiêm tốn ở các văn bản quy phạm pháp luật, nhưng bản chất và ý nghĩa sâu xa của thuật ngữ này đã xuất hiện từ rất lâu.

Bộ luật dân sự năm 2015 (sau đây viết tắt là BLDS 2015) không đề cập trực tiếp tới khái niệm miễn trừ trách nhiệm dân sự nói chung và TNBTTH ngoài hợp đồng nói riêng nhưng lại hiện hữu các quy định và các điều luật khác thể hiện việc áp dụng.

Tác giả cho rằng, xét về mặt bản chất thì không có gì mâu thuẫn lớn dù theo quan điểm nào đó khi xác định miễn trừ trách nhiệm dân sự hoặc TNBTTH ngoài hợp đồng cũng đều phải thừa nhận một số vấn đề sau:

Thứ nhất, đây là ý chí của Nhà nước thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật cho phép một chủ thể không phải chịu trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ, đặc biệt là TNBTTH ngoài hợp đồng;

Thứ hai, sự vi phạm này xuất hiện trong sự kiện, hoàn cảnh đặc biệt mới dẫn đến bên vi phạm được miễn trừ toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm dân sự;

Thứ ba, việc miễn trừ TNBTTH ngoài hợp đồng không đồng nghĩa với việc xóa bỏ tư cách chủ thể chịu trách nhiệm dân sự của bên vi phạm mà khi rơi vào trường hợp được miễn trừ một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm dân sự họ sẽ phải chứng minh, vì sao mình được áp dụng quy định về miễn trừ. Lý giải thêm cho điều này, tác giả dẫn chiếu Bộ nguyên tắc của Unidroit về Hợp đồng Thương mại quốc tế năm 2004 tại Điều 7.1.6 lại mang tên gọi “điều khoản miễn trừ2. Đây cũng chính là lý do mà Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 quy định về “Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm”, nội dung của điều luật này thể hiện khá đầy đủ các căn cứ miễn trách nhiệm dân sự được quy định trong BLDS 2015.

Qua sự phân tích trên đây, tác giả xin đưa ra khái niệm miễn trừ trách nhiệm dân sự như sau: Miễn trừ TNBTTH ngoài hợp đồng là việc bên vi phạm pháp luật dân sự không bị áp dụng một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm bồi thường khi khắc phục lại tình trạng ban đầu về vật chất hoặc tinh thần cho bên bị vi phạm.

1.2. Đặc điểm miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Thứ một, tiền đề áp dụng căn cứ miễn trừ TNBTTH ngoài hợp đồng là hành vi vi phạm tạo ra thiệt hại

Trong khi trách nhiệm dân sự được áp dụng khi có hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm nghĩa vụ thì TNBTTH ngoài hợp đồng phải cần tới điều kiện tiên quyết là thiệt hại do hành vi vi phạm tạo ra.

Từ đây có thể hình dung, tiền đề để áp dụng việc miễn trừ TNBTTH ngoài hợp đồng phải xuất hiện hành vi vi phạm pháp luật tạo ra thiệt hại.

Thứ hai, là khả năng chủ thể vi phạm không phải thực hiện một phần hoặc toàn bộ

Như trên đã phân tích hệ quả tất yếu dẫn đến việc áp dụng miễn TNBTTH ngoài hợp đồng là phải xuất hiện sự vi phạm pháp luật tạo ra thiệt hại và căn cứ vào từng điều kiện, hoàn cảnh, lý do phù hợp có thể do các chủ thể thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Theo đó, bên vi phạm sẽ được miễn trừ một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm dân sự của mình. Như vậy, đặc điểm của miễn trừ TNBTTH ngoài hợp đồng là căn cứ vào những yếu tố khác nhau như: Thỏa thuận của các bên, sự kiện bất khả kháng, lỗi thuộc về bên có quyền, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết… mà chủ thể vi phạm nghĩa vụ không phải thực hiện một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm của mình.

Thứ ba, được áp dụng thống nhất và như nhau đối với các chủ thể của quan hệ

Khoa học pháp lý khi đưa ra quy định liên quan tới vấn đề miễn trừ trách nhiệm pháp lý nói chung luôn xác định chủ thể vi phạm phải gánh chịu một chế tài nào đó nhưng họ được miễn trừ toàn bộ hoặc một phần khi rơi vào các trường hợp đặc biệt mà pháp luật đã dự liệu. Tuy vậy, ở mỗi loại trách nhiệm pháp lý thì cơ chế này lại khác nhau: Nếu pháp luật hình sự xem xét nhân thân người phạm tội để hướng tới khả năng chịu trách nhiệm thì PLDS lại quy định vấn đề này hoàn toàn khác, dù chủ thể nào gây thiệt hại thì một số vấn đề sau vẫn được xác định rõ ràng: Mức độ thiệt hại, mức BTTH, chủ thể phải BTTH … Điều này phản ánh một thực tế trách nhiệm dân sự nói chung và miễn trừ trách nhiệm dân sự nói riêng không hướng tới yếu tố tư cách tham gia quan hệ của chủ thể để áp dụng hoặc miễn trừ.

Thứ tư, được áp dụng dựa trên ý chí của một bên hoặc hoàn toàn do luật định

TNBTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm của một hoặc nhiều chủ thể trước hành vi vi phạm hoặc quy định của pháp luật tạo ra thiệt hại về quyền, lợi ích với một hoặc nhiều chủ thể khác. Vì quyền, lợi ích là yếu tố được luật định gắn liền với bên bị vi phạm cho nên họ có quyền tự định đoạt về việc có yêu cầu bên vi phạm thực hiện trách nhiệm của mình hay không. Do đó, khi phát sinh quan hệ BTTH, bên vi phạm có thể không phải chịu TNBTTH do bên bị vi phạm miễn việc thực hiện trách nhiệm.

2. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Tại Điều 360 và Chương XX BLDS 2015 quy định về TNBTTH. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không đưa ra định nghĩa thế nào là “TNBTTH ngoài hợp đồng” mà chỉ nêu căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm và thời hiệu khởi kiện yêu cầu đòi bồi thường.Dưới góc độ khoa học pháp lý, khi một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác thì phải BTTH hay nói cách khác là gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp những tổn thất vật chất hoặc tinh thần cho người bị thiệt hại. Bản chất của vấn đề này là tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không vì lợi ích của mình mà xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Như vậy, TNBTTH ngoài hợp đồng ở đây có thể hiểu là: “Một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ”3. Điều này dẫn tới một nguyên tắc cơ bản áp dụng cho hành vi gây thiệt hại của các chủ thể là gây thiệt hại bao nhiêu bồi thường bấy nhiêu. Tuy nhiên, PLDS lại có những quy định mang tính phù hợp với thực tiễn ở chỗ tạo cho chủ thể gây thiệt hại cơ hội được miễn trừ một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm dân sự nếu tuân thủ đủ các điều kiện.

2.1. Miễn trừ một phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Thứ nhất, Người gây thiệt hại không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của mình

Việc xét yếu tố lỗi cũng như khả năng kinh tế của người gây thiệt hại để miễn trừ trách nhiệm dân sự, BLDS năm 2015 xác định rõ và cơ bản như sau:

– Không có lỗi: Đây là trường hợp có thiệt hại xảy ra nhưng không liên quan hoặc khó xác định trạng thái tâm lý của người phải bồi thường thiệt hại. Ví dụ: Trường hợp tài sản gây thiệt hại. Chủ sở hữu vẫn phải BTTH nhưng có thể được giảm mức bồi thường nếu thiệt hại xảy ra vượt quá khả năng kinh tế của họ.

– Lỗi vô ý mà gây thiệt hại;

Khoản 2 Điều 364 BLDS 2015 quy định: “Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.

– Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của mình;

Thực tế cho thấy không phải lúc nào người gây thiệt hại cũng có khả năng chịu trách nhiệm về tài sản trước hành vi của mình. Bên cạnh đó, điều kiện, hoàn cảnh của mỗi chủ thể vi phạm, ý thức pháp luật của mỗi vùng miền người lại khác nhau. Mặc dù, họ không muốn gây thiệt hại cho chủ thể khác nhưng do họ thiếu hiểu biết nên đã vô ý gây thiệt hại.

Khi Tòa án ra phán quyết đối với hành vi vi phạm của người gây thiệt hại, mức BTTH lại vượt quá khả năng kinh tế của đối tượng này, dẫn tới một hệ lụy là khó thi hành bản án đã có hiệu lực trên thực tế. Và lẽ dĩ nhiên, điều này lại mâu thuẫn với chính nguyên tắc bồi thường “toàn bộ” và “kịp thời” để khắc phục thiệt hại đối với người bị thiệt hại. Do đó, đây được đánh giá là nguyên nhân sâu xa tạo điều kiện thuận lợi cho người gây thiệt hại có lỗi vô ý và gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình được giảm mức BTTH. Nói cách khác, khi không có lỗi hoặc có lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình được miễn trừ một phần trách nhiệm dân sự.

Thứ hai, Có sự thỏa thuận giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại

Pháp luật chưa có quy định về việc người gây thiệt hại và người bị thiệt hại có thể thỏa thuận để miễn trừ một phần hay toàn bộ trách nhiệm dân sự nhưng dựa theo hai quy định sau đây, chúng tôi cho rằng sự thỏa thuận về việc miễn trừ trách nhiệm dân sự là hoàn toàn có căn cứ:

Một là, khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Điều này cho thấy, tự do thỏa thuận là một trong các phương pháp điều chỉnh cơ bản của các quan hệ PLDS, trong đó có quan hệ BTTH ngoài hợp đồng.

Hai là, Khoản 1 Điều 585 BLDS năm 2015 quy định: “Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường

Thứ ba, Người bị thiệt hại có một phần lỗi

Theo quy định tại Điều 363 BLDS 2015, trường hợp vi phạm nghĩa vụ và có thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình. Tuy nhiên, việc áp dụng yếu tố lỗi trong trách nhiệm hỗn hợp này trên thực tế lại cần đến việc sử dụng biện pháp loại trừ hình thức lỗi nào khi áp dụng TNBTTH đối với cả hai chủ thể là người gây thiệt hại, người bị thiệt hại.

Về xác định mức bồi thường: Căn cứ theo điều 363 BLDS 2015

Một là, lỗi của bên gây thiệt hại là yếu tố quyết định đến thiệt hại xảy ra nhưng có lỗi của chủ thể bị thiệt hại thì chủ thể gây thiệt hại sẽ được miễn trừ một phần TNBTTH (X – n)

Hai là, lỗi của bên gây thiệt hại không phải là yếu tố quyết định tới thiệt hại xảy ra thì bên gây thiệt hại chỉ phải bồi thường một phần thiệt hại, thậm chí không phải bồi thường.

  • Nếu xác định thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của một bên thì điều này thường dựa trên một số yếu tố sau:

+ Thứ nhất, cả bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại đều có lỗi vô ý hoặc rơi vào trường hợp có lỗi cố ý nhưng do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

+ Thứ hai, mức độ lỗi vô ý của mỗi người sẽ được xác định dựa theo nguyên tắc xác định lỗi mà pháp luật hình sự đã quy định hoặc theo quyết định của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác đối với những vụ việc cần có tín chất nghiệp vụ.

2.2. Miễn trừ toàn bộ trách nhiệm bồi thường thiệt hại

  • Phòng vệ chính đáng

Theo quy định tại Điều 594 BLDS 2015 thì người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng sẽ không phải chịu TNBTTH. BLDS 2015 không quy định rõ phòng vệ chính đáng là gì? Điều kiện để được miễn trừ TNBTTH trong trường hợp này là như thế nào? Tuy nhiên, phòng vệ chính đáng theo quy định tại khoản 1 Điều 22 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là “hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên”.

  • Quy định về phòng vệ chính đáng phải có đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm cho xã hội

Thứ hai, hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ;

Thứ ba, phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại;

Thứ tư, hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá lớn giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.

  • Tình thế cấp thiết

Tương tự như trường hợp phòng vệ chính đáng, BLDS 2015 cũng ghi nhận chủ thể gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết sẽ được miễn trừ toàn bộ trách nhiệm dân sự 4. Khoản 1, Điều 171 BLDS 2015 quy định: “Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn”.

Như vậy, để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu TNBTTH về mặt dân sự phải tuân thủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, phải có sự đe dọa đối với lợi ích mà pháp luật đang bảo vệ

Thứ hai, sự đe dọa cần tránh trong tình thế cấp thiết phải có thật, đang xảy ra và chưa kết thúc

Thứ ba, việc gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục nguy hiểm

Thứ tư, thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa

  • Sự kiện bất khả kháng

Tại Khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.

Từ những phân tích trên,  để được coi là sự kiện bất khả kháng và được miễn trừ toàn bộ trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ phải tuân thủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, sự kiện xảy ra phải hoàn toàn khách quan

Thứ hai, các chủ thể tham gia không thể lường trước được

Thứ ba, các chủ thể tham gia đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép mà không thể khắc phục được

Thứ tư, phải có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm nghĩa vụ

  • Lỗi hoàn toàn thuộc về người bị thiệt hại

Khi thiệt hại xảy ra được xem xét lỗi hoàn toàn thuộc về người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại được miễn trừ toàn bộ trách nhiệm dân sự. Đối với trách nhiệm dân sự trong hợp đồng, để được miễn trừ toàn bộ trách nhiệm dân sự việc chứng minh yếu tố lỗi hoàn toàn thuộc về bên có quyền là nghĩa vụ của bên vi phạm. Còn trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng thì ghi nhận việc chứng minh yếu tố lỗi hay chứng minh để loại trừ trách nhiệm dân sự.

Theo các quy định của BLDS 2015, được xem xét là căn cứ miễn trừ TNBTTH cho người gây thiệt hại thì bản chất của quy định này được quy định như sau:

Thứ nhất, Điều 584 BLDS năm 2015 quy định: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại…”

Thứ hai, điểm a, Khoản 3 Điều 601 khi quy định về trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH ngay cả khi không có lỗi trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.

Tuy nhiên vì bị áp dụng trách nhiệm dân sự nên vẫn phải loại trừ trách nhiệm dân sự cho họ nếu thuộc trường hợp được miễn trừ. Liên quan tới vấn đề này, BLDS 2015 có quy định về trường hợp chuyển lỗi tại Điều 599 Khoản 1, 2 Bộ luật dân sự 2015.

  • Lỗi hoàn toàn thuộc về bên thứ ba

Khác với việc xác định lỗi hoàn toàn thuộc về bên bị thiệt hại như trên, BLDS 2015 còn dự liệu quy định một trường hợp lỗi hoàn toàn thuộc về bên thứ ba:

Một là, Khoản 2 Điều 596 BLDS 2015 quy định: “Khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.”.

Hai là, quy định tại Khoản 2 Điều 603: “Trong trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải BTTH…”.

  • Sự thỏa thuận giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại

Khác với căn cứ này, đối với việc miễn trừ trách nhiệm dân sự trong hợp đồng, hiếm khi thiệt hại xảy ra hay các thỏa thuận bị vi phạm dẫn đến có thiệt hại trong hợp đồng được bên có quyền miễn trừ toàn bộ trách nhiệm dân sự. Thực tế, khi tham gia vào quan hệ hợp đồng thì các chủ thể trong quan hệ đó ít nhiều cũng hiểu được năng lực tham gia hợp đồng đó phía đối tác của mình, trách nhiệm dân sự được các chủ thể hướng tới để thỏa thuận thường mang tính chất ràng buộc trách nhiệm và hậu quả của sự vi phạm nghĩa vụ. Nên khi có sự vi phạm hoặc thiệt hại xảy ra việc miễn toàn bộ trách nhiệm dân sự là rất ít. Nhưng đối với TNBTTH ngoài hợp đồng thì lại khác, mặc dù có thiệt hại xảy ra mới là tiền đề để áp dụng trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến khả năng các bên thỏa thuận và được miễn trừ toàn bộ trách nhiệm dân sự. Và về nguyên tắc, sự thỏa thuận đó phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội sẽ được pháp luật bảo đảm thực hiện.

Bài viết liên quan

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon