Trong bất kỳ hệ thống pháp luật nói chung cũng như pháp luật hình sự nói riêng, trách nhiệm hình sự đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm công bằng và duy trì trật tự xã hội. Tuy nhiên, để xác định một người có chịu trách nhiệm về hành vi của mình hay không chính là năng lực trách nhiệm hình sự. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc xác định đúng đắn và áp dụng pháp luật một cách khách quan, nhằm tránh sự lạm dụng cũng như bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi công dân.
Qua bài viết dưới đây, vấn đề này sẽ phân tích sâu hơn về khái niệm năng lực trách nhiệm hình sự, các yếu tố ảnh hưởng đến nó và những vấn đề khác có liên quan.
1. Khái niệm năng lực trách nhiệm hình sự
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học, năng lực được hiểu là tập hợp những yếu tố như kiến thức, kỹ năng, khả năng và hành vi, giúp một cá nhân thực hiện hiệu quả một công việc hoặc hoạt động cụ thể. Năng lực không chỉ đơn thuần là sự sở hữu kiến thức lý thuyết, mà còn bao gồm khả năng vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn, kết hợp với kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết vấn đề và sự linh hoạt trong tư duy cùng nhiều yếu tố khác góp phần quyết định đến hiệu suất làm việc của mỗi người.
Trên cơ sở khái quát chung này, đối với khoa học pháp lí, mặc dù không văn bản nào trực tiếp định nghĩa hay quy định như thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng theo Điều 21 Bộ luật Hình sự thì khái niệm này được hiểu là sự nhận thức về năng lực, sự kiểm soát hành vi cũng như khả năng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự của một người nếu thực hiện hành vi phạm tội.
2. Các yếu tố xác định năng lực trách nhiệm hình sự
Để xác nhận năng lực trách nhiệm hình sự, pháp luật Việt Nam phải xem xét dựa trên các yếu tố cơ bản có liên quan về độ tuổi và khả năng nhận thức, điều khiển hành vi.
2.1. Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Căn cứ tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
– Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
– Người dưới 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Độ tuổi để có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi và tuổi chịu trách nhiệm hình sự là khác nhau nhưng có liên quan mật thiết với nhau. Theo nguyên tắc chung, tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định dựa trên cơ sở khoa học về sự phát triển tâm lý, sinh lý của con người và không thể thấp hơn độ tuổi mà một cá nhân được cho là có khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi của mình.
Do đó, trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng không cần thiết phải đánh giá chi tiết từng trường hợp về việc cá nhân có đáp ứng yêu cầu năng lực nhận thức và điều khiển hành vi hay không nên việc xác định một người có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không chủ yếu dựa vào việc họ đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định hay chưa. Chỉ trong những trường hợp có dấu hiệu bất thường, như nghi ngờ người đó mắc bệnh tâm thần hoặc rối loạn thần kinh ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi, thì cơ quan tố tụng mới cần tiến hành giám định và xem xét cụ thể. Cách tiếp cận này giúp đảm bảo tính nhất quán trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời tránh tình trạng phải đánh giá chủ quan từng cá nhân trong từng vụ án, gây khó khăn và phức tạp trong quá trình xét xử.
2.2. Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
Ngoài yếu tố độ tuổi, một người chỉ có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ có đủ khả năng nhận thức hành vi của mình và điều khiển hành vi đó. Điều này ở đây được hiểu đầy đủ là năng lực kiềm chế và năng lực lựa chọn cách xử sự trong những sự việc cụ thể). Năng lực này cũng như độ tuổi, để có năng lực này không phụ thuộc vào quy định của pháp luật. Do vậy, năng lực này có thể được coi là năng lực “tự nhiên” của con người.
3. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự xảy ra khi một cá nhân không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức. Điều này được quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015:
“Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Theo đó, để xác địnhtình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự hay không có thể được dựa trên hai dấu hiệu cơ bản là dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý.
3.1. Về dấu hiệu y học
Thể hiện ở việc mắc bệnh tâm thần kinh niên hoặc rối loạn tâm thần tạm thời hoặc một bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần. Trong đó, bệnh tâm thần có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân:
– Nguyên nhân đầu tiên có thể do tổn thương trực tiếp đến não bộ gây trở ngại cho hoạt động của não như là: chấn thương sọ não, nhiễm độc thần kinh, các bệnh mạch máu não, các tổn thương não khác…
– Nguyên nhân thứ hai phát sinh do từ tâm lý của người bệnh: rối loạn lo âu, ám ảnh; rối loạn hành vi ở thanh, thiếu niên do giáo dục không đúng, môi trường xã hội không thuận lợi, căng thẳng tâm lý…
– Nguyên nhân thứ ba phát sinh do cấu tạo thể chất bất thường và phát triển tâm thần bệnh lý: các dị tật bẩm sinh, thiếu sót về hình thành nhân cách.
3.2. Dấu hiệu tâm lý
Thể hiện ở việc một người không thể đánh giá được hành vi của mình, không thể nhận thức được các yêu cầu của xã hội liên quan đến vi đã thực hiện, không điều kiện được hành vi của minh.
Như vậy, dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý là những điều kiện cần và đủ để xác định một người ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Dấu hiệu y học có vai trò như là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lý là hậu quả. Ngoài ra, đối với trường hợp người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015 trước khi bị kết án thì cũng đã được áp dụng các biện pháp buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
4. Có bắt buộc phải xác định năng lực trách nhiệm hình sự hay không?
Thực tiễn xét xử cho thấy rằng, trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự của một cá nhân không phải là thủ tục bắt buộc được áp dụng đối với tất cả các trường hợp. Thay vào đó, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ xem xét kiểm tra và giám định năng lực này khi có căn cứ hợp lý để nghi ngờ về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người phạm tội.
Ví dụ: Ngày 20/10/2024, A, X, Y, Z tổ chức ăn nhậu tại nhà của A. Sau khi 04 người uống rượu bia xong thì có rủ nhau đi hát karaoke tại quán gần nhà của Y. Trên đường đi thì gặp B là hàng xóm của X thì xảy ra mâu thuẫn, A dùng tay đấm vào mặt B nhiều cái thì B vùng chạy về tới nhà thì gọi ông T – là bố của B để ra đánh lại nhóm của A. Ông T gọi ông C, G là hàng xóm cùng đi, sau khi được ông T rủ thì ông C lấy một cây mã tấu ngồi sau xe của G, cả 4 người đi trên 2 xe mô tô đuổi theo một đoạn thì gặp được nhóm của A. Khi thấy A thì B hô to “thằng này đấm con bố ơi”. Ngay sau khi nghe thấy B nói vậy C liền dùng mã tấu đang cầm trên tay chém thẳng vào đầu của A nhiều nhát, sau đó 2 nhóm lao vào hỗn chiến, nhóm của A bị nhóm của B đuổi đánh chạy tan tác. Do vết thương quá nặng A đã tử vong tại bệnh viện. B, T, G, C bị khởi tố về hành vi “giết người”. Trong quá trình điều tra xác định C bị tâm thần nên C không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều này có nghĩa là, trong những vụ án thông thường, khi không có dấu hiệu cho thấy bị cáo có vấn đề về năng lực trách nhiệm hình sự, thì việc giám định tâm thần hoặc đánh giá khả năng nhận thức của họ không được đặt ra. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp đặc biệt, khi có dấu hiệu cho thấy người thực hiện hành vi phạm tội có thể bị hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức do bệnh lý tâm thần hoặc các yếu tố khách quan khác, cơ quan tố tụng có trách nhiệm tiến hành kiểm tra, giám định để đảm bảo việc xử lý vụ án được thực hiện một cách chính xác, khách quan và đúng quy định pháp luật.
Như vậy, việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự của một cá nhân không phải là yêu cầu chung áp dụng bắt buộc cho mọi vụ án mà chỉ được đặt ra trong một số trường hợp cụ thể khi có dấu hiệu nghi vấn cần làm rõ, nhằm đảm bảo tính công bằng trong xét xử và tránh tình trạng kết án oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Trên đây là toàn bộ những nội dung liên quan về vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự. Luật Dương Gia hi vọng bài viết này đã giúp ích cũng như giải đáp những thắc mắc mà bạn đang gặp phải. Nếu trong trường bạn cần tư vấn thêm vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số hotline 093154899 để được hỗ trợ.
CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0931548999; 02367300899