Nguồn gốc và ý nghĩa lịch sử ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam 30/4 và ngày Quốc tế Lao động 1/5

nguon-goc-va-y-nghia-lich-su-ngay-giai-phong-hoan-toan-mien-nam-30-4-va-ngay-quoc-te-lao-dong-1-5

Mỗi năm, cứ đến 30/04, 1/5 cả nước lại hòa chung không khí vào ngày lễ toàn dân. Đây được xem là ngày lễ lớn trong năm, là sự kiện trọng đại mang ý nghĩa lịch sử đối với dân tộc. Cùng Luật Dương Gia tìm hiểu về lịch sử cũng như ý nghĩa của những ngày lễ này nhé.

1. Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam

Ngày 30/04 là ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam. Có rất nhiều tên gọi khác nhau để nói về sự kiện trọng đại này. Trong đó, ngoài tên gọi chính thức là Ngày giải phóng miền nam thì còn là ngày 30/4, ngày Thống nhất đất nước hay ngày Thống nhất, ngày Chiến thắng. Giải phóng hoàn toàn miên Nam thống nhất đất nước, giải phóng dân tộc do Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Chiến thắng vào ngày 30/4/1975 đánh dấu mốc son vàng chói lọi trong lịch sử, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước ta. Quân và dân ta đã đánh thắng đế quốc Mỹ – kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất trên thế giới lúc bấy giờ và chính quyền tay sai ở miền Nam, giành lại độc lập, chủ quyền và kết thúc cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho tổ quốc.

Vào ngày này hàng năm, người dân lại có dịp nhìn lại hình ảnh hào hùng của quân và dân ta đó là hình ảnh người chiến sĩ Bùi Quang Thận cắm lá cờ đầu tiên trên nóc Dinh Độc Lập báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh dấu sự kiện Tổng thống Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mầu của chính thể Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Sau đó, để ghi nhớ công ơn của Hồ Chủ tịch, Sài Gòn lúc bấy giờ được đổi tên thành thành phố Hồ Chí Minh. Kể từ ngày 30/04/1975 lịch sử năm ấy, đến nay 30/04/2023 là kỷ niệm 48 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

2. Lịch sử, ý nghĩa của ngày Giải phóng miền Nam

2.1. Lịch sử ngày Giải phóng miền Nam

Vào cuối năm 1974 – đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “Cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế – Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.

Vào lúc 17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

2.2. Ý nghĩa

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ đây tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng ngày 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Quân và dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976) đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Hay đánh giá của đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Trong quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, ba cái mốc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng mùa xuân 1975, đại thắng mãi mãi sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kì tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường quốc, đế quốc chủ nghĩa chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới”.

Đại thắng mùa xuân năm 1975, như nhận định của Đảng ta là một sự kiện quan trọng có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc, làm nức lòng bạn bè và nhân dân tiến bộ khắp năm châu bôn biển. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ IV cũng chỉ rõ: “Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đẩy lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, làm yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các trào lưu cách mạng thời đại, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi cho hàng trăm triệu người trên khắp trái đất đang đấu tranh vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”

Ngày 30 tháng 4 hàng năm là ngày lễ toàn dân mang ý nghĩa lịch sử trọng đại, đây là dịp nhắc nhở thế hệ con cháu về sự hi sinh và tinh thần quật khởi của ông cha ta cùng máu và nước mắt, hi sinh vì sự độc lập, tự do của ngày hôm nay.

Để tưởng nhớ đến những người đã ngã xuống vì sự độc lập dân tộc, hàng năm vào những ngày này các nơi sẽ diễn ra các hoạt động kỷ niệm ngày Giải phóng miền Nam 30/04 nhằm nhắc lại những trang sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Các hoạt động như viếng thăm nghĩa trang liệt sĩ, tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ tìm hiểu ngày Giải phóng miền Nam, thăm hỏi các gia đình chính sách, cựu chiến binh, thương binh, liệt sĩ, mẹ Việt Nam anh hùng,…..

3. Ngày Quốc tế Lao động 1/5

3.1. Lịch sử ngày Quốc tế Lao động

Ngày 1/5 bắt nguồn từ thành phố công nghiệp lớn Chicago, Mỹ. Năm 1886, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Mỹ. Tại Việt Nam, Ngày Quốc tế Lao động đầu tiên được tổ chức vào năm 1930. Ngoài ra, ngày 1/5 còn là ngày kỷ niệm phong trào đấu tranh chống thực dân, đế quốc, đánh dấu sự giành lại độc lập – tự do – dân chủ, cũng như những quyền lợi về kinh tế – xã hội.

Ngày 1/5/1930 – lần đầu tiên trong lịch sử phong trào công nhân ở Đông Dương, giai cấp công nhân nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã biểu tình ngoài đường phố để biểu dương tình đoàn kết cách mạng với công nhân quốc tế, đồng thời đấu tranh trực diện với bọn đế quốc thực dân Pháp, đòi Pháp phải cải thiện điều kiện làm việc, phải tăng lương và thực hiện luật lao động ngày làm việc 8 giờ. Đó là điểm bắt đầu cho cả cao trào 1930-1931 với đỉnh cao là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh.

Ngày 1/5/1946, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, ngày Quốc tế Lao động được tổ chức kỷ niệm mittinh trọng thể tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 20 vạn nhân dân lao động.

Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 22c NV/CC ngày 18/2/1946 về những ngày nghỉ tế, lễ kỷ niệm lịch sử và lễ tôn giáo, trong đó công bố: Ngày 1/5 là một trong những ngày lễ chính thức và công nhân lao động cả nước sẽ được nghỉ 1 ngày hưởng nguyên lương.

3.2. Ý nghĩa ngày Quốc tế Lao động

Ngày nay, ngày Quốc tế Lao động đã trở thành ngày hội lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Kỷ niệm 137 năm ngày Quốc tế Lao động 1/5/2023 là dịp biểu thị tình đoàn kết hữu nghị với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, ôn lại lịch sử đấu tranh, xây dựng và trưởng thành của giai cấp công nhân, khẳng định vai trò, vị trí, những đóng góp to lớn của lực lượng công nhân và người lao động cho sự phát triển của xã hội.

Trên đây là bài viết của Luật Dương Gia về lịch sử và ý nghĩa của hai ngày lễ lớn là ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam 30/04 và ngày Quốc tế lao động 1/5.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon