Các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu

cac-truong-hop-chia-tai-san-chung-trong-thoi-ky-hon-nhan-bi-vo-hieu

Trong đời sống hôn nhân, chỉ khi vợ chồng ly hôn thì quan hệ tài sản mới chấm dứt. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp vợ chồng có thể thỏa thuận việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải tuân thủ theo quy định của pháp luật. Nếu thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng vi phạm quy định của pháp luật thì thỏa thuận đó sẽ không có hiệu lực pháp luật và bị vô hiệu. Bài viết dưới đây sẽ phân tích cụ thể hơn về các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu.

Căn cứ pháp lý:

– Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

– Bộ luật Dân sự năm 2015;

1. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu là gì?

– Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được hiểu là việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân vẫn tồn tại dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án trong trường hợp vợ chồng có yêu cầu Tòa án giải quyết.

– Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu là trường hợp thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng vi phạm quy định của pháp luật dẫn đến thỏa thuận đó không có hiệu lực pháp luật và không được pháp luật công nhận.

2. Các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ được thực hiện khi có một trong ba lý do, đó là vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng mới được thỏa thuận về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không quy định các lý do để chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà để vợ chồng tự do thỏa thuận về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phù hợp với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với mục đích hợp pháp của hai bên vợ chồng, đảm bảo quyền tự do định đoạt của vợ chồng đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

Mặc dù Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong việc định đoạt tài sản chung nhưng luật vẫn có những quy định ràng buộc, đặt ra những giới hạn nhất định để đảm bảo việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Đó là việc quy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu theo quy định tại Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Thứ nhất, không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các Luật khác có liên quan: thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng là một dạng giao dịch dân sự, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản đó. Do đó, thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng sẽ bị vô hiệu nếu thuộc trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015.

Thứ hai, thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, điều 42 quy  việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;

b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;

c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;

d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;

đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;

e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Khoản 1 Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trường hợp vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì việc chia tài sản chung trong trường hợp này được xác định là vô hiệu. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình là vô hiệu nhằm đảm bảo lợi ích chung của gia đình, đảm bảo việc xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. 

Nếu việc thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì cũng thuộc trường hợp vô hiệu.

Do đó nếu việc chia tài sản này có ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của con thì không được chia tài sản chung. Việc chăm sóc nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình là nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và bất kỳ nhu cầu riêng về tài sản nào cũng không được đặt lên trên lợi ích của con. Quy định tại Khoản 1 Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đề cao trách nhiệm của vợ chồng trong việc xây dựng đời sống gia đình, góp phần bảo đảm các thành viên trong gia đình phải có trách nhiệm đối với nhau, đề cao nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con. Đồng thời đây cũng là biện pháp bảo đảm những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình được quy định tại Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về việc xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.

Ngoài việc bảo đảm lợi ích chung của gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích của các con, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 còn bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong quan hệ pháp luật dân sự khi quy định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu khi nhằm trốn tránh việc thực hiện một trong các nghĩa vụ sau đây:

– Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng (điểm a khoản 2 điều 42): Nuôi dưỡng là việc một người chăm sóc và cung cấp những thứ cần thiết cho người khác (người được nuôi dưỡng) nhằm tạo điều kiện để duy trì và phát triển cuộc sống của người đó. Còn cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định.

Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình giữa những người có quan hệ thân thích với nhau thể hiện truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung nhằm trốn tránh trách nhiệm nuôi dưỡng con cái hay phụng dưỡng cha mẹ, đi ngược lại với đạo đức xã hội và trái với quy định của pháp luật.

Vì vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định, mọi trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đều mặc nhiên vô hiệu. Quy định này nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cũng như nghĩa vụ của con đối với cha mẹ nhằm xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, đảm bảo mọi thành viên trong gia đình đều phải có trách nhiệm với nhau.

– Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan (điểm b, c, d, đ, e Khoản 2 Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014):

Theo quy định tại Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

– Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập. nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

– Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

– Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

– Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thưởng;

– Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng tham gia vào các hoạt động đầu tư, kinh doanh riêng, việc thỏa thuận này không nhằm trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ thì đều được pháp luật công nhận. Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì vợ chồng có toàn quyền quyết định đối với số tài sản đã chia mà không cần sự đồng ý của bên kia.

Điều 64 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh như sau:

“Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác”.

Riêng đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có những quy định khác nhau về việc chuyển nhượng phần vốn góp trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Vì vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp nhận chuyển nhượng phần vốn góp ngoài việc tuân thủ các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 còn phải phù hợp với các quy định của Luật Doanh nghiệp.

Thứ ba, thỏa thuận chia tài sản bị vô hiệu trong trường hợp vi phạm quy định về hình thức của thỏa thuận: Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định thỏa thuận về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản và văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu thỏa thuận của vợ chồng về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn không đảm bảo điều kiện về mặt hình thức này thì sẽ bị vô hiệu.

Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon