Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 ra đời đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử lập pháp hình sự. Nghiên cứu BLHS năm 2015 cho thấy rằng, các quy định về hiệu lực của BLHS đã có nhiều thay đổi tập trung vào cụ thể hóa cũng như bổ sung những nội dung cơ bản trong các nguyên tắc xác định hiệu lực của BLHS Việt Nam trên tinh thần khẳng định chủ quyền quốc gia, bảo đảm tốt nhất quyền lợi của công dân, tổ chức, Nhà nước; đồng thời khẳng định cam kết nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ pháp lý trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong cuộc chiến chống tội phạm trên toàn cầu. Trong nội dung bài viết dưới đây sẽ đi sâu, phân tích Các nguyên tắc xử lý được quy định trong BLHS năm 2015.
1. Nguyên tắc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật
Các nguyên tắc xử lý trong BLHS được quy định tại Điều 3 BLHS năm 2015. Điều luật xác định các nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội, qua đó thể hiện một số nguyên tắc chung của luật hình sự Việt Nam.
– Nguyên tắc tổng quát được điều luật xác định tại điểm a khoản 1 cũng như điểm a khoản 2. Theo đó, tội phạm phải được “… phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”. Đây là nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả của BLHS trong thực hiện nhiệm vụ chống tội phạm cũng như nhiệm vụ bảo vệ, phòng ngừa và giáo dục. Nguyên tắc này có các nội dung sau:
+ Phát hiện kịp thời: phát hiện tội phạm kịp thời không chỉ ngăn ngừa được sớm khả năng tái diễn của tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra tội phạm và góp phần tạo dựng môi trường pháp lý nghiêm minh và qua đó tăng tính răn đe, giáo dục. Phát hiện kịp thời tội phạm bao gồm phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, phát hiện người thực hiện hành vi đó cũng như phát hiện dấu hiệu về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại vì có liên quan với hành vi và người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm.
+ Xử lý nhanh chóng: xử lý tội phạm nhanh chóng bao gồm: điều tra nhanh chóng, truy tố nhanh chóng, xét xử nhanh chóng. Các hoạt động này phải được hoàn tất nhanh nhất có thể trong thời gian luật định. Điều này không chỉ đòi hỏi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà đòi hỏi ý thức trách nhiệm các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự thuộc các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử.
+ Xử lý phải công minh theo đúng pháp luật: các hoạt động xử lý tội phạm phải được thực hiện theo đúng pháp luật, kể cả pháp luật hình thức và pháp luật nội dung. Mọi quyết định trong xử lý tội phạm, trong đó có phán quyết của Tòa án đều phải công bằng và minh bạch trong phạm vi pháp luật cho phép. Chỉ khi đáp ứng được yêu cầu này thì việc xử lý tội phạm mới tạo ra môi trường pháp lý tích cực có khả năng giáo dục và răn đe.
Phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật mọi hành vi phạm tội có một ý nghĩa không chỉ đối với việc đấu tranh chống tội phạm mà còn có ý nghĩa phòng ngừa tội phạm.
Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp do phát hiện kịp thời hành vi phạm tội nên đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại do tội phạm gây ra. Ví dụ: Nếu chúng ta phát hiện kịp thời một số người đang có hành vi chuẩn bị phạm tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” sẽ ngăn chặn được tác hại do hành vi phạm tội gây ra. Phát hiện kịp thời hành vi phạm tội còn có ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục cho mọi công dân công tác phòng ngừa tội phạm, cảnh báo những ai có ý định thực hiện tội phạm hãy từ bỏ ý định phạm tội nếu không sẽ bị trừng trị. Phát hiện kịp thời tội phạm còn có tác dụng chống mọi hoài nghi không đáng có vào tình hình an ninh và trật tự an toàn xã hội, mọi người yên tâm lao động sản xuất, tin tưởng vào chế độ, vào Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân có nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm bằng cách phát hiện kịp thời, tố giác hành vi phạm tội với các cơ quan có thẩm quyền.
2. Nguyên tắc bình đẳng trong xử lý tội phạm
Nguyên tắc này dựa trên nguyên tắc chung về bình đẳng được thể hiện trong Hiến pháp tại Điều 16 (Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật) và tại Điều 51 (Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng…). Theo đó điểm b khoản 1 của Điều luật xác định: mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật; việc xử lý tội phạm từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử đều không bị chi phối bởi giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội của người phạm tội. Tương tự, điểm b khoản 2 của điều luật cũng xác định: mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật; việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại cũng không bị chi phối bởi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế của pháp nhân thương mại. Người phạm tội cũng như pháp nhân thương mại phạm tội đều phải được các cơ quan tiến hành tố tụng đối xử bình đẳng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Nguyên tắc này không chỉ là nguyên tắc của BLHS khi xử lý hành vi phạm tội, mà còn là nguyên tắc đối với các đạo luật khác; không chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà đối với toàn xã hội, cần phải có thái độ công bằng đối với người phạm tội dù họ là ai. Khi khẳng định nguyên tắc “mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật”, nhưng không phải vì thế mà cho rằng không có sự phân hóa “nghiêm trị ai, khoan hồng đối với ai” và điều này càng thể hiện nội dung của khái niệm “bình đẳng, công bằng” không đồng nhất với khái niệm “bình quân, cào bằng”.
3. Nguyên tắc phân hóa trong xử lý tội phạm
Thể hiện nguyên tắc này, khoản 1 và khoản 2 điều luật đã xác định các đối tượng cần nghiêm trị và các đối tượng cần khoan hồng.
Theo điểm c khoản 1 của điều luật, những người phạm tội cần nghiêm trị là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, là người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Điểm d khoản 1 quy định những người phạm tội cần nghiêm trị là những người dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Đây đều là những trường hợp có tính nguy hiểm cao do thủ đoạn phạm tội, do hình thức phạm tội hoặc do hậu quả phạm tội. Theo điểm c khoản 2 của điều luật, trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội cần sự nghiêm trị là trường hợp đã dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệm, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Theo điểm d khoản 1 của điều luật, người phạm tội được khoan hồng là người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra cũng như là người tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án.
Theo điểm d khoản 2 của điều luật, pháp nhân thương mại được khoan hồng trong trường hợp tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.
Nếu căn cứ vào nội dung thì việc khoan hồng có thể coi là một nguyên tắc độc lập với các nguyên tắc khác. Tuy nhiên, nhà làm luật không quy định thành một nguyên tắc riêng mà quy định ngay sau nguyên tắc cần nghiêm trị. Có thể về kỹ thuật lập pháp, việc không quy định thành một nguyên tắc độc lập sẽ dẫn đến việc hiểu và áp dụng nguyên tắc này một cách máy móc là chỉ đối với người phạm tội “dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” mà “tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra” thì mới được khoan hồng, còn những người khác thì không được. Nếu hiểu như vậy là phiến diện, chưa thấy hết chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người phạm tội.
Tuy nguyên tắc này được quy định trong cùng một điểm nhưng phải hiểu rằng, tất cả những người phạm tội mà “tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra” thì đều được khoan hồng. Chỉ có hiểu như vậy mới thấy hết được nguyên tắc xử lý đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội mà Nhà nước đề ra.
Các nguyên tắc trên là nguyên tắc phân hóa tội phạm, không chỉ có tác dụng đấu tranh chống tội phạm mà còn có tác dụng to lớn trong việc phòng ngừa tội phạm. Việc quy định nghiêm trị ai, loại hành vi nào, không phải chỉ để áp dụng hình phạt thật nặng đối với họ mà chủ yếu có tính chất răn đe, phòng ngừa, cảnh báo cho mọi người biết nếu cố tình phạm tội thuộc các trường hợp trên thì sẽ bị nghiêm trị.
4. Nguyên tắc nhân đạo trong xử lý tội phạm
Nguyên tắc nhân đạo được thể hiện ở nhiều điều luật khác nhau của BLHS. Riêng tại Điều 3, nguyên tắc này được thể hiện ở ba nội dung có tính định hướng như sau:
+ Hạn chế hình phạt tù: Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. Nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng còn là cơ sở quy định các chế định khác về quyết định hình phạt như: Căn cứ quyết định hình phạt; quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS; án treo…
+ Giảm thiểu thời gian phải chấp hành hình phạt tù: “… nếu họ có đủ điều kiện…, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện”. Người bị phạt tù tuy bị hạn chế quyền tự do, nhưng họ được lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì được xét giảm việc chấp hành hình phạt tù. Đây là nguyên tắc nhân đạo đối với người đã bị kết án và bị phạt tù giam; cũng là nguyên tắc cơ bản mà không phải quốc gia nào cũng quy định. Ở nước ta, người bị phạt tù tuy bị hạn chế quyền tự do, nhưng họ được lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì được xét giảm việc chấp hành hình phạt tù.
Nguyên tắc này là cơ sở để quy định các chế định khác như: Chế định về miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên; giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt; hoãn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù…
+ “Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích”. Việc xóa án tích cũng là một nguyên tắc không chỉ xóa đi mặc cảm của xã hội đối với người bị kết án mà còn để chính bản thân người bị kết án cũng xóa đi mặc cảm đối với chính họ.
Ngoài ba nội dung có tính định hường và đã được cụ thể hóa trong các điều luật, điểm g khoản 1 còn xác định “Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng”. Đây là nguyên tắc nhân đạo đối với người bị kết án, họ không bị xã hội thành kiến với tội lỗi mà họ đã phạm. Nội dung có tính định hướng này tuy thể hiện nguyên tắc nhân đạo những lại vượt ra ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật hình sự nên không thể được cụ thể hóa trong điều luật của BLHS.
Nội dung này được hiểu là sau khi người phạm tội đã chấp hành xong hình phạt, họ được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng. Các cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng đối với người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt. Tuy nhiên, để nguyên tắc đi vào cuộc sống thì trước hết các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các doanh nghiệp phải thật sự loại bỏ tư tưởng kỳ thị đối với người bị kết án. Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích đối với các đơn vị, các tổ chức kinh tế nhận người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù vào đơn vị, doanh nghiệp mình làm việc.
Nguyên tắc nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, phân hóa tội phạm là nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình áp dụng BLHS, là chính sách hình sự của Nhà nước đối với tội phạm. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng phải luôn luôn quán triệt nguyên tắc này để xử lý tội phạm. Nguyên tắc này còn là cơ sở để quy định các chế định, các quy định khác về tội phạm và hình phạt trong cả Phần thứ nhất và Phần thứ hai của BLHS.