Phân tích quyền định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực dân sự

phan-tich-quyen-dinh-doat-tai-san-rieng-cua-con-chua-thanh-nien-con-da-thanh-nien-mat-nang-luc-dan-su

 

Trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, quyền sở hữu tài sản được xác lập và bảo vệ một cách chặt chẽ, bao gồm cả quyền định đoạt – một trong ba quyền năng cốt lõi của chủ sở hữu. Thực tế đời sống, không hiếm trường hợp trẻ vị thành niên sở hữu tài sản giá trị như bất động sản, phương tiện hay tiền tiết kiệm, cũng như người trưởng thành bị mất năng lực hành vi dân sự vẫn có quyền sở hữu tài sản riêng, tuy nhiên đối với những chủ thể đặc biệt trên việc thực hiện quyền định đoạt tài sản phải chịu sự giới hạn, điều chỉnh bởi nhiều quy định pháp luật ? Khi phát sinh nhu cầu định đoạt tài sản, ai là người có quyền quyết định? Phạm vi và giới hạn của quyền này được pháp luật quy định ra sao? Những câu hỏi này không chỉ mang ý nghĩa pháp lý  liên quan đến quyền lợi thiết thực của người có tài sản, đồng thời cũng bảo vệ lợi ích của xã hội và người quản lý, người giám hộ. , Bài viết này của Luật Dương Gia sẽ đi sâu phân tích cơ sở pháp lý và các tình huống cụ thể liên quan đến quyền định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên và con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản liên quan, kèm theo ví dụ minh họa cụ thể.

Cơ sở pháp lý

1. Khái niệm về quyền định đoạt tài sản

Quyền định đoạt là một trong ba quyền của chủ sở hữu tài sản theo quy định tại Điều 192 Bộ luật Dân sự 2015. Quyền này cho phép chủ sở hữu chuyển nhượng, tặng cho, đổi, thừa kế, thanh lý tài sản hoặc từ chối thực hiện quyền sở hữu.

2. Quyền định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên

Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Theo quy định tại Điều 21 BLDS 2015, năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên được chia làm ba nhóm:

  • Dưới 6 tuổi: Không có năng lực hành vi dân sự.
  • Từ đủ 6 đến dưới 15 tuổi: Có năng lực hành vi dân sự hạn chế.
  • Từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi: Có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ.

Mặc dù có quyền sở hữu tài sản riêng (được tặng, thừa kế, lao động phù hợp…), nhưng người chưa thành niên chỉ có thể định đoạt tài sản trong một số trường hợp hạn chế và phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ

Quyền sở hữu tài sản riêng của con chưa thành niên Theo Điều 75 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, con có tài sản riêng bao gồm:

  • Tài sản được tặng cho riêng, được thừa kế riêng;
  • Thu nhập từ lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, tài sản khác do con tự tạo ra hoặc có quyền sở hữu theo quy định của pháp luật.
  • Quyền định đoạt tài sản của con chưa thành niên
  • Đối với trẻ dưới 6 tuổi: Theo Điều 21 BLDS 2015 và Điều 141, mọi giao dịch liên quan đến tài sản của trẻ dưới 6 tuổi đều phải do người đại diện theo pháp luật (cha, mẹ, người giám hộ) thực hiện. Trẻ không có quyền tự mình định đoạt tài sản riêng.

Ví dụ: Bé An 5 tuổi được ông ngoại tặng 1 mảnh đất, quyền sở hữu vẫn là của bé, nhưng việc mua bán, chuyển nhượng, cho thuê đều phải do cha mẹ hoặc người giám hộ của bé thực hiện với sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền nếu cần.

  • Đối với trẻ từ 6 đến dưới 15 tuổi: Trẻ có thể tự mình thực hiện một số giao dịch dân sự đơn giản phù hợp với độ tuổi (Khoản 1 Điều 21), nhưng vẫn cần sự đồng ý của người đại diện nếu là giao dịch lớn. Ví dụ: Trẻ 14 tuổi được tặng cho xe đạp điện, có thể bán lại với sự đồng ý của cha mẹ.
  • Từ 15 đến dưới 18 tuổi: Theo Khoản 2 Điều 21 BLDS 2015, người từ 15 tuổi trở lên có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (trừ giao dịch cần sự đồng ý của người đại diện theo quy định pháp luật hoặc có nội dung liên quan tới tài sản có giá trị lớn).
  • Nếu con có tài sản riêng và tự tạo ra từ lao động hợp pháp thì có quyền định đoạt tài sản đó một cách độc lập. Tuy nhiên, các giao dịch như bán nhà, đất cần có sự xét duyệt của người đại diện hoặc cơ quan có thẩm quyền.
  • Cha mẹ, người giám hộ theo pháp luật không được sử dụng tài sản riêng của con vào mục đích cá nhân (Điều 75, 76 Luật HN&GĐ).

3 Quyền định đoạt tài sản của con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự

Khái niệm và cơ sở pháp lý Theo Điều 22 BLDS 2015, người mất năng lực hành vi dân sự là người do Tòa án tuyên có tình trạng tâm thần hoặc bệnh khác khiến không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.

  • Người này dù có tài sản riêng nhưng mọi hành vi pháp lý liên quan đến tài sản không được tự mình thực hiện các quyền định đoạt  mà phải thông qua người đại diện theo pháp luật.
  • Người đại diện theo pháp luật Theo quy định tại Điều 136 BLDS 2015, người giám hộ, người được Tòa án chỉ định sẽ là người đại diện cho người mất năng lực hành vi dân sự.
  • Mọi giao dịch liên quan tới tài sản (bán, tặng cho, cho thuê…) đều do người đại diện thực hiện, phải vì lợi ích của người được đại diện. Nếu người đại diện có hành vi lạm dụng tài sản, người có quyền và cơ quan giám sát có thể yêu cầu thay đổi hoặc chấm dứt quyền đại diện.
  • Hạn chế trong việc sử dụng, chuyển nhượng tài sản Các giao dịch lớn liên quan đến đất đai, nhà ở, hoặc có giá trị lớn có thể phải được sự đồng ý của Tòa án, cơ quan chức năng để tránh việc người đại diện lợi dụng quyền. Thậm chí, trong một số trường hợp, phải có sự chấp thuận bằng văn bản của các cơ quan như Phòng Công chứng, Sở Tư pháp, hoặc phải lập thủ tục giám sát việc định đoạt tài sản.

Ví dụ minh họa

  • Trường hợp trẻ 10 tuổi được thừa kế nhà đất: Bé H (10 tuổi) được ông nội để lại nhà đất theo di chúc. Bé không được tự mình định đoạt tài sản. Việc cho thuê, bán nhà cần có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ, và có sự giám sát của cơ quan chức năng.
  • Trường hợp người thanh niên 25 tuổi bị tâm thần: Anh T bị tâm thần, Tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân sự. Mẹ anh được chỉ định làm người đại diện. Để bán xe ô tô của anh T, mẹ anh cần cung cấp chứng cứ về mục đích sử dụng tiền bán xe vì lợi ích của anh (chữa bệnh, chăm sóc…). Nếu có tranh chấp, cơ quan chức năng sẽ can thiệp.
  • Trường hợp trẻ vị thành niên sở hữu tài sản từ nghệ thuật: Em N (17 tuổi), một ca sĩ trẻ, có thu nhập từ việc biểu diễn và sáng tác nhạc. Em có thể sử dụng tiền này để mua sắm tài sản phục vụ công việc (âm thanh, nhạc cụ), nhưng việc mua bất động sản hoặc tài sản giá trị lớn vẫn cần có sự đồng ý của cha mẹ.

4. Các vấn đề pháp lý thực tiễn và đề xuất

a,Thực tiễn xảy ra tranh chấp tài sản do người giám hộ đại diện không trung thực Không ít trường hợp trên thực tế cho thấy người đại diện cho trẻ chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự đã lạm dụng quyền để chiếm đoạt hoặc sử dụng tài sản không đúng mục đích, dẫn đến tranh chấp pháp lý kéo dài.

b, Đề xuất

  • Cần có cơ chế giám sát độc lập đối với việc định đoạt tài sản lớn, đặc biệt là bất động sản của người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự.
  • Cơ quan có thẩm quyền như Tòa án, UBND cấp xã, phòng công chứng… cần tăng cường kiểm tra, xác minh mục đích, nội dung các giao dịch có yếu tố đại diện pháp lý.
  • Phổ biến kiến thức pháp luật cho phụ huynh và người đại diện hợp pháp nhằm giảm thiểu rủi ro vi phạm hoặc tranh chấp.

5. Kết luận

Quyền định đoạt tài sản riêng là một quyền tài sản cơ bản của cá nhân, được pháp luật dân sự Việt Nam ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trong trường hợp người sở hữu tài sản là con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, quyền này bị giới hạn nhằm đảm bảo sự an toàn, ổn định và phù hợp với lợi ích chính đáng của chính người sở hữu tài sản cũng như lợi ích xã hội.

Qua phân tích, có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam đã thiết lập cơ chế giám hộ, quản lý tài sản và kiểm soát hành vi định đoạt tài sản của những chủ thể đặc biệt này một cách thận trọng, dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền sở hữu nhưng phải đặt dưới sự kiểm soát của người đại diện hợp pháp. Cụ thể, việc định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ, và trong một số trường hợp quan trọng phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Đối với người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, mọi hành vi pháp lý liên quan đến tài sản đều do người giám hộ thực hiện, và phải hướng đến lợi ích của người được giám hộ.

Tuy vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật còn gặp không ít khó khăn, đặc biệt là trong việc xác định ranh giới giữa quyền định đoạt của chủ sở hữu và quyền quản lý, đại diện của người giám hộ. Ngoài ra, vẫn còn tình trạng lạm dụng quyền giám hộ để trục lợi cá nhân, ảnh hưởng đến quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người mất năng lực dân sự. Do đó, hệ thống pháp luật cần tiếp tục hoàn thiện thông qua việc quy định chi tiết hơn, tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động giám hộ và xử lý nghiêm hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của người được giám hộ.

Từ góc độ lý luận và thực tiễn, việc bảo vệ quyền tài sản của người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự không chỉ là nhiệm vụ của hệ thống pháp luật mà còn là trách nhiệm của gia đình, xã hội và các cơ quan nhà nước. Chỉ khi tất cả các chủ thể cùng phối hợp thực hiện một cách hiệu quả, quyền định đoạt tài sản của các đối tượng yếu thế mới được đảm bảo đầy đủ, đúng pháp luật và nhân đạo.

Trên đây là bài viết của Luật Dương Gia về “Phân tích quyền định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực dân sự”. Trong trường hợp còn đang thắc mắc hoặc cần sử dụng dịch vụ, hãy liên hệ ngay với Luật Dương Gia để được tư vấn nhanh chóng và chính xác nhất.

CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG

Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

Điện thoại: 0931548999; 02367300899

Gọi ngay
Gọi ngay