Trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc bắt giữ người phạm tội là một hành động quan trọng, nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cũng như bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít trường hợp trong khi bắt giữ, người thi hành và cơ quan chức năng vô tình gây thiệt hại về sức khỏe, tài sản của người phạm tội hoặc của bên thứ ba. Vậy vấn đề pháp lý quan trọng được đặt ra đối với trách nhiệm khi gây thiệt hại trong bắt giữ người phạm tội được xác định như thế nào?
Bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ phân tích các quy định pháp luật liên quan, điều kiện loại trừ trách nhiệm, và những nguyên tắc áp dụng trong thực tiễn xử lý.
1. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là gì?
Trong quá trình phát hiện, xử lý tội phạm thì pháp luật cho phép người có thẩm quyền hoặc mọi công dân đều có quyền bắt giữ người phạm pháp theo căn cứ, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định. Theo đó, căn cứ tại Điều 24 Bộ luật hình sự 2015 quy định:
“Điều 24. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
- Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
- Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Từ đó, có thể hiểu việc gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức gây tổn thất về tính mạng, sức khỏe, tài sản trong quá trình ngăn chặn, khống chế và bắt giữ người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc người bị truy nã.
Hành vi này có thể được pháp luật xem xét là tình huống loại trừ trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn các điều kiện về tính cần thiết và không vượt quá giới hạn cần thiết theo quy định của Bộ luật Hình sự. Ngược lại, nếu gây thiệt hại vượt mức cần thiết hoặc không đúng quy định pháp luật, người thực hiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Người gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội có phải là tội phạm không?
Theo quy định nêu trên, việc một người gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội có bị xem là tội phạm hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là các quy định của pháp luật về loại trừ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, nếu sử dụng vũ lực rõ ràng đã vượt quá mực cần thiết thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể: như Tội Giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126 BLHS), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136)
Nhìn chung chủ thể của các loại tội phạm này thực hiện hành vi nêu trên đa số đều do lỗi vô ý, mặc dù có động cơ phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm tội, hoàn toàn là động cơ tốt, bảo vệ lợi ích của bản thân, của người khác hoặc của Nhà nước, cơ quan, tổ chức; đồng thời người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả có thể xảy ra cũng như luôn tự tin rằng mình có thể khống chế được tình hình nhưng thực tế đã vượt quá mức sử dụng vũ lực cần thiết dẫn đến hậu quả chết người. Do đó, những hành vi này có thể xem là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng người phạm tội nên sẽ bị xử phạt tương ứng với mức độ phạm tội.
3. Điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp “gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội”
Với những phân tích trên, mặc dù gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là hành vi vô ý nhưng hậu quả về sức khỏe tính mạng con người vẫn xảy ra, do đó, để xác định trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội không phải là tội phạm và được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 24 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cần phải thỏa mãn một số điều kiện sau:
Thứ nhất, việc bắt giữ người phạm tội là hợp pháp
Chỉ khi việc bắt giữ người phạm tội là hợp pháp thì mới đặt ra vấn đề xem xét loại trừ TNHS trong trường hợp có thiệt hại xảy ra. Để xác định việc bắt giữ người có hợp pháp hay không cần đối chiếu vào các quy định về căn cứ, quyền hạn, trình tự, thủ tục bắt giữ quy định tại BLTTHS.
Bởi lẽ, việc bắt giữ người tác động trực tiếp đến quyền tự do về thân thể của công dân, là một trong những quyền nhân thân quan trọng nhất của con người, được quy định trong Hiến pháp nên chủ thể có quyền bắt giữ cần nắm chắc các căn cứ phát sinh quyền bắt giữ, dựa trên căn cứ thực tế mà xác định chính xác đối tượng bị bắt giữ và thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục trong các trường hợp bắt giữ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Thứ hai, việc sử dụng vũ lực đối với người bị bắt giữ là biện pháp cuối cùng và duy nhất
Về cơ sở phát sinh quyền được dùng vũ lực: Khi đã phát sinh quyền được bắt giữ người khác, chủ thể cũng cần phải nhận thức về tính cấp bách của việc bắt giữ, tức là phải có hành động bắt giữ ngay đối tượng bằng việc sử dụng vũ lực nếu không đối tượng sẽ tẩu thoát, tiếp tục trốn tránh hay có thể thực hiện một hành vi phạm tội khác, điều này thể hiện tính cấp bách để đạt được mục đích bắt giữ người phạm tội.
Bên cạnh đó, chủ thể buộc phải nhận thức rõ rành, cụ thể về việc cần dùng vũ lực đối với người bị bắt giữ, khi trường hợp sự phản kháng của đối tượng ở mức độ mạnh, có tính nguy hiểm cao, nhận thấy việc sử dụng các biện pháp khác khả năng không có hiệu quả (thông qua việc đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của đối tượng, thái độ, công cụ, phương tiện đối tượng sử dụng, nhân thân của đối tượng…) thì việc sử dụng vũ lực ngay có thể được coi là cách duy nhất. Bởi lẽ, nếu đối tượng sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã không còn khả năng phản kháng, chống cự hoặc đang đến cơ quan chức năng để đầu thú thì không có bất kỳ cơ sở nào cho việc sử dụng vũ lực.
Thứ ba, thiệt hại gây ra do sử dụng vũ lực phải xảy ra trên chính người bị bắt giữ đang có hành vi chống trả, trốn tránh
Điều 24 BLHS năm 2015 quy định rõ việc sử dụng vũ lực là “gây thiệt hại cho người bị bắt giữ”. Việc gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội chỉ có một mục đích duy nhất, đó là chấm dứt sự chống trả, trốn tránh của người bị bắt giữ để đưa đến cơ quan có thẩm quyền, làm cho người đó không thể tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc tiếp tục trốn tránh sự truy nã. Để đạt được mục đích này, chủ thể bắt giữ sử dụng vũ lực tác động lên cơ thể người bị bắt giữ và gây thiệt hại cho chính họ mà không phải gây thiệt hại cho người nào khác. Trường hợp chủ thể bắt giữ dùng vũ lực gây thiệt hại cho những người khác (khống chế người thân, bạn bè, đồng nghiệp hoặc hủy hoại tài sản) để tạo áp lực buộc người bị bắt giữ phải dừng lại hành vi chống cự, phản kháng của họ thì chủ thể bắt giữ thực hiện hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Điều kiện này xuất phát từ mục đích của việc bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội là nhằm ngăn chặn, khống chế, bắt giữ được đối tượng, mọi hoạt động bắt giữ phải hướng tới việc làm cho họ phải chịu khuất phục, không thể và không còn khả năng trốn thoát. Nếu gây thiệt hại cho những người khác (bạn bè, người thân thích của họ…), có thể người bị bắt giữ sẽ chịu khuất phục nhưng việc gây thiệt hại đó không phải là bản chất của hoạt động bắt giữ người phạm tội thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Thứ tư, việc gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải ở mức độ cần thiết
Khi đã lựa chọn biện pháp sử dụng vũ lực đối với người bị bắt giữ thì không phải gây thiệt hại đến mức độ nào cũng được mà thiệt hại gây ra cho người bị bắt giữ phải ở mức độ cần thiết. Tính cần thiết ở đây được hiểu là ở mức độ vừa phải, có giới hạn nhất định, đủ để làm tê liệt sự phản kháng của đối tượng, đủ để bắt giữ, khống chế được đối tượng, có như vậy mới loại trừ trách nhiệm hình sự cho người gây ra thiệt hại. Đây là một điều kiện quan trọng để xác định việc gây thiệt hại khi bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội có phải là tội phạm hay không. Nếu trường hợp người bắt giữ sử dụng vũ lực gây thiệt hại rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, việc bảo đảm một cơ chế pháp lý rõ ràng về vấn đề này sẽ giúp cho người dân thực hiện tốt hơn quyền của mình, để họ tin tưởng rằng khi tham gia bắt giữ người phạm tội, nếu có gây ra những thiệt hại cần thiết thì họ cũng được pháp luật bảo vệ, đồng thời người tham gia bắt giữ đối tượng phạm tội sẽ có những tiêu chí cụ thể để kiểm soát hoạt động của mình, tránh việc gây thiệt hại quá mức cần thiết cho người bị bắt giữ mà vẫn đạt được yêu cầu đặt ra, từ đó, góp phần khuyến khích người dân tích cực tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Với những nội dung trên có liên quan đến hành vi khi bắt giữ người phạm tội, Luật Dương Gia hi vọng bài viết này đã giúp ích cũng như giải đáp những thắc mắc mà bạn đang gặp phải. Nếu trong trường bạn cần tư vấn thêm vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số Hotline 093154899 để được hỗ trợ.
CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0931548999; 02367300899