Hiện nay, không ít vụ ẩu đả, xô xát xảy ra do sử dụng chất kích thích hay việc sử dụng chất kích thích sau đó tham gia giao thông gây ra hậu quả rất nghiêm trọng, không chỉ về tài sản, vật chất mà cả tính mạng, sức khỏe của con người. Vậy pháp luật quy định như thế nào về bồi thường thiệt hại do sử dụng chất kích thích gây ra? Hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu quy định về vấn đề này qua bài viết dưới đây.
Cơ sở pháp lý:
1. Chất kích thích là gì?
Hiện nay, pháp luật chưa đưa ra khái niệm cụ thể về chất kích thích, tuy nhiên có thể hiểu khái niệm về chất kích thích như sau: Chất kích thích là một thuật ngữ mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều loại hoạt chất làm tăng hoạt động của hệ thần kinh trung ương và cơ thể.
Chất kích thích là những chất được đưa vào cơ thể người qua việc ăn, uống, ngửi, hít, tiêm… gây ức chế sự nhận thức của não dẫn đến việc không điều khiến được hành vi của người sử dụng; từ đó có thể gây ra thiệt hại cho các chủ thể khác. Các chất kích thích được sử dụng phổ biến như rượu, bia. Ngoài ra, còn có các loại ma túy, cỏ mỹ, cần sa,…
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sử dụng chất kích thích
Khoản 1 Điều 596 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “1. Người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.”
Theo đó mặc dù tại thời điểm gây ra thiệt hại họ không nhận thức được về hành vi và hậu quả mà mình thực hiện. Tuy nhiên, trước khi uống rượu hoặc sử dụng các chất kích thích khác, bản thân họ phải nhận thức rõ việc sử dụng chất kịch thích và hậu quả của việc sử dụng chất kích thích này sẽ nguy hiểm tới người khác như thế nào. Do đó trong việc gây ra thiệt hại bản thân họ bị coi là có lỗi vì đã để mình rơi vào tình trạng không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Chính vì vậy, trong trường hợp này pháp luật buộc người dùng chất kích thích phải bồi thường đối với những thiệt hại mà mình gây ra.
Đồng theo, Khoản 2 Điều 596 Bộ luật dân sự quy định: “Khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.”
Theo đó, nếu một người có hành vi cưỡng ép, đe doạ, cố ý buộc người khác dùng chất kích thích khiến cho người này không thể có lựa chọn khác mà bắt buộc phải sử dụng chất kích thích từ đó khiến họ lâm vào tình trạng không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho người thứ ba thì người có hành vi cho người khác dùng chất kích thích là người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bởi lẽ mặc dù thiệt hại không trực tiếp do người ép buộc người khác dùng chất kích thích gây ra, tuy nhiên hành vi của họ được xem là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Do đó trong trường hợp này người có hành vi ép buộc người khác dùng chất kích thích là người có nghĩa vụ bồi thường đối với những thiệt hại xảy ra.
Như vậy, đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sử dụng chất kích thích phải có những dấu hiệu như sau:
+ Sử dụng chất kích thích: Rượi, bia, thức uống có cồn, ma tuý,… mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi.
+ Gây thiệt hại: Vật chất, tinh thần, sức khoẻ, tính mạng…
Dựa theo các thiệt hại xảy ra người có hành vi vi phạm có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với: Tài sản, sức khoẻ, danh dự nhân phân, uy tín và cả tính mạng theo quy định tại các Điều 589 đến Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Điều 589. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
4. Thiệt hại khác do luật quy định.
Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
3. Trường hợp chịu trách nhiệm Hình sự đối với thiệt hại do sử dụng chất kích thích
Ngoài bồi thường thiệt hại đối với việc sử dụng chất kích thích gây nguy hiểm, cá nhân có thể còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự tuỳ theo mức độ thiệt hại gây ra theo đó Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định như sau:
3.1. Phạm tội do dùng chất kích thích
Theo quy định tại Điều 13 BLHS năm 2015 Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác:
Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác
Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
3.2. Trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự gây ra và mọi hành vi phạm tội đểu bị xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên Bộ luật hình sự cũng có các quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đó là tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự có nguyên nhân từ việc mắc bênh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
“Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi tồn tại dưới 2 dạng như sau:
Dạng thứ nhất: Bệnh tâm thần hoặc bệnh khác hay còn gọi là chứng rối loạn sức khỏe tâm thần, đề cập đến một loạt tình trạng sức khỏe tâm thần – các chứng rối loạn ảnh hưởng đến tâm trạng, suy nghĩ và hành vi.
Dạng thứ hai: Do tác động của yếu tố chủ quan dẫn đến hình thành bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Nguyên nhân hình thành nên tình trạng này đó là do sử dụng các chất cấm trong đó có ma túy.
3.3. Xử lý hình sự do phạm tội do dùng chất kích thích gây ra
Nguyên nhân hình thành “Ảo giác” do sử dụng chất kích thích hoàn toàn không phải là hình thành một cách tự nhiên mà nhờ sự tác động của một chất bị Nhà nước cấm nhưng người phạm tội vẫn sử dụng đó là hành vi cố ý, vì vậy, xác định việc sử dụng ma túy gây ra ảo giác, ảnh hưởng hệ thần kinh không phải là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự.
Phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác không những phải chịu trách nhiệm hình sự mà trong trường hợp nhất định phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn so với những trường hợp bình thường. Đó là những trường hợp khi thực hiện một số công việc có tính chất đặc biệt, luật cấm người thực hiện công việc đó sử dụng rượu, bia, chất kích thích như việc điều khiển ô tô, xe máy, tàu bay, tàu hoả,…
Theo đó, tuỳ thuộc vào mức độ gây thiệt hại cá nhân có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự bởi các tội danh như: Tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật hình sự, Tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự… Trong trường hợp chất kích thích là ma túy, phạm tội theo nhóm, người phạm tội còn bị khởi tố về tội danh “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, căn cứ theo kết luận giám định của cơ quan điều tra, người hoặc nhóm người phạm tội trong trường hợp sử dụng chất kích thích ma túy có thể bị khởi tố thêm về tội danh tương ứng như: Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249; tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 250; tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 251 Bộ Luật hình sự 2015…
Trên đây là các thông tin tư vấn đối với “Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra”. Nếu quý khách có bất kỳ thắc mắc gì xin vui lòng liên hệ đến chung tôi theo số Hotline 19006568 để nhận được sự tư vấn tốt nhất từ đội ngũ Luật sư của chúng tôi.