Học thêm, dạy thêm từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong hệ thống giáo dục tại Việt Nam, đặc biệt là tại các thành phố lớn. Tại Đà Nẵng, một thành phố đang phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, nhu cầu học thêm, dạy thêm cũng ngày càng tăng cao.
Tuy nhiên, việc cấp phép dạy thêm, học thêm tại Đà Nẵng đã có những thay đổi đáng kể trong thời gian gần đây. Theo đó, các quy định cấp phép dạy thêm, học thêm cấp Bộ đã hết hiệu lực. Điều này đặt ra câu hỏi rằng liệu Thành phố Đà Nẵng có cấp phép cho việc dạy thêm và học thêm không? Bài viết này Luật Dương Gia sẽ cùng tìm hiểu các vấn đề liên quan.
1. Hoạt động dạy thêm, học thêm là gì?
Theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 2 Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành về thì: “Dạy thêm, học thêm trong quy định này là hoạt động dạy học phụ thêm có thu tiền của người học, có nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông nhưng ngoài kế hoạch giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.”
Cũng tại khoản 2 của điều trên quy định: “Dạy thêm, học thêm trong nhà trường là dạy thêm, học thêm do cơ sở giáo dục công lập (gồm: cơ sở giáo dục phổ thông; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng; trung tâm ngoại ngữ, tin học, sau đây gọi chung là nhà trường) tổ chức.”
Như vậy, có thể hiểu dạy thêm, học thêm là hoạt động giáo dục diễn ra ngoài giờ học chính khóa tại trường học, nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học. Tuy nhiên, hoạt động này phải tuân thủ các quy định của pháp luật về giáo dục, đảm bảo chất lượng và không gây áp lực cho học sinh.
2. Các nguyên tắc dạy thêm, học thêm
Pháp luật đã đưa ra các nguyên tắc nhằm đảm bảo chất lượng và tính tự nguyện của việc dạy thêm học thêm. Việc có các nguyên tắc rõ ràng về dạy thêm, học thêm không chỉ bảo vệ quyền lợi của học sinh mà còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và tạo ra một môi trường học tập lành mạnh. Các nguyên tắc cụ thể là:
- Hoạt động dạy thêm, học thêm phải góp phần củng cố, nâng cao kiến thức, kỹ năng, giáo dục nhân cách của học sinh; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và không gây nên tình trạng vượt quá sức tiếp thu của người học.
- Không cắt giảm nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá để đưa vào giờ dạy thêm; không dạy thêm trước những nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá.
- Đối tượng học thêm là học sinh có nhu cầu học thêm, tự nguyện học thêm và được gia đình đồng ý; không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc gia đình học sinh và học sinh học thêm.
- Không tổ chức lớp dạy thêm, học thêm theo các lớp học chính khóa; học sinh trong cùng một lớp dạy thêm, học thêm phải có học lực tương đương nhau; khi xếp học sinh vào các lớp dạy thêm, học thêm phải căn cứ vào học lực của học sinh.
3. Các trường hợp không được dạy thêm
Nhằm đảm bảo các vấn đề tiêu cực của việc dạy thêm, học thêm, pháp luật đã có các quy định về các trường hợp cấm như sau:
– Không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. Quy định này nhằm tránh việc học sinh bị quá tải với việc học tập, đồng thời đảm bảo thời gian nghỉ ngơi và phát triển các kỹ năng xã hội cần thiết. Học sinh học 2 buổi/ngày đã được cung cấp đầy đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết theo chương trình giảng dạy chính quy, do đó không cần thiết phải tham gia thêm các lớp học ngoài giờ.
– Không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống. Học sinh tiểu học đang trong giai đoạn phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, do đó, việc hạn chế dạy thêm kiến thức học thuật giúp các em có nhiều thời gian hơn để phát triển các kỹ năng khác. Việc bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao và kỹ năng sống giúp học sinh phát triển toàn diện, tăng cường sức khỏe và khả năng tư duy sáng tạo.
– Cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và trường dạy nghề không tổ chức dạy thêm, học thêm các nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông. Quy định này nhằm tránh tình trạng các cơ sở giáo dục trên lợi dụng việc dạy thêm để thu lợi bất chính, đồng thời đảm bảo rằng học sinh phổ thông nhận được giáo dục theo đúng chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
– Đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập: Không được tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường; Không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó. Quy định này nhằm đảm bảo rằng giáo viên không lợi dụng vị trí công tác để tổ chức dạy thêm trái phép, gây ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy chính quy. Tuy nhiên, giáo viên vẫn có thể tham gia dạy thêm tại các cơ sở dạy thêm ngoài nhà trường nhưng phải tuân thủ quy định của pháp luật và không dạy thêm học sinh mà mình đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của thủ trưởng cơ quan quản lý.
4. Mức thu tiền học thêm, dạy thêm
Hiện nay, quy định về mức thu tiền dạy thêm học thêm tại Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT như sau:
“Điều 7. Thu và quản lý tiền học thêm
1. Đối với dạy thêm, học thêm trong nhà trường:
a) Thu tiền học thêm để chi trả thù lao cho giáo viên trực tiếp dạy thêm, công tác quản lý dạy thêm, học thêm của nhà trường; chi tiền điện, nước và sửa chữa cơ sở vật chất phục vụ dạy thêm, học thêm;
b) Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với nhà trường;
c) Nhà trường tổ chức thu, chi và công khai thanh, quyết toán tiền học thêm thông qua bộ phận tài vụ của nhà trường; giáo viên dạy thêm không trực tiếp thu, chi tiền học thêm.
2. Đối với dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường:
a) Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với tổ chức, cá nhân tổ chức dạy thêm, học thêm.
b) Tổ chức, cá nhân tổ chức dạy thêm, học thêm thực hiện các quy định hiện hành về quản lý tài chính đối với tiền học thêm.”
Như vậy, pháp luật không quy định bắt buộc về mức phí dạy thêm học thêm. Mức phí hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các chủ thể liên quan như nhà trường và phụ huynh, hay giáo viên và phụ huynh. Điều này có nghĩa là các bên có thể tự do thương lượng và thống nhất với nhau về mức phí dựa trên các yếu tố như chất lượng giảng dạy, thời lượng học, số lượng học sinh tham gia, và các dịch vụ bổ sung đi kèm.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính minh bạch và công bằng, mức phí cần được thực hiện một cách minh bạch và công khai. Cụ thể, nhà trường hoặc giáo viên cần thông báo rõ ràng về mức phí cho phụ huynh trước khi bắt đầu khóa học. Thông tin này cần được cung cấp một cách chi tiết, bao gồm các khoản phí cụ thể, thời gian thanh toán, và các điều kiện hoàn trả nếu có. Ngoài ra, việc thu phí cũng nên được quản lý chặt chẽ, đảm bảo không có tình trạng lạm thu hay thu phí không đúng quy định.
Việc công khai và minh bạch mức phí không chỉ giúp phụ huynh dễ dàng theo dõi và kiểm soát chi phí giáo dục của con em mình, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát và đánh giá từ các cơ quan chức năng. Điều này góp phần ngăn chặn các hành vi tiêu cực như lợi dụng dạy thêm để trục lợi cá nhân, đồng thời thúc đẩy môi trường giáo dục lành mạnh, công bằng và bền vững.Đà Nẵng có cấp phép dạy thêm, học thêm không
5. Đà Nẵng có cấp phép dạy thêm, học thêm không?
Trước đây, việc dạy thêm học thêm tuân theo quy định tại Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT. Trong đó, tại Điều 6 quy định việc dạy thêm học thêm ngoài nhà trường phải được cấp phép bởi Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Các hoạt động này phải đảm bảo giữ gìn trật tự, an ninh, đảm bảo vệ sinh môi trường nơi tổ chức dạy thêm, học thêm. Ngoài ra, phải công khai các thông tin như giấy phép tổ chức hoạt động, danh sách người dạy thêm, thời khóa biểu, mức thu tiền học thêm ngay tại địa điểm tổ chức học thêm. Quy định này nhằm đảm bảo việc dạy thêm, học thêm diễn ra minh bạch, có sự giám sát của các cơ quan chức năng, và bảo vệ quyền lợi của học sinh, phụ huynh cũng như người dạy thêm.
Tuy nhiên, sau ngày 26/8/2029, Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành Quyết định 2499/QĐ-BGDĐT năm 2019 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT. Theo Quyết định này, Điều 6 đã hết hiệu lực. Điều này có nghĩa là quy định về việc dạy thêm học thêm ngoài nhà trường không còn được áp dụng nữa.
Từ đó toàn quốc bao gồm cả thành phố Đà Nẵng, ngừng các hoạt động cấp phép dạy thêm học thêm. Quyết định này có thể nhằm mục đích giảm bớt gánh nặng cho các cơ quan chức năng trong việc giám sát và quản lý các hoạt động dạy thêm học thêm, đồng thời mở ra cơ hội cho các hình thức giáo dục ngoài nhà trường tự do và linh hoạt hơn. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra nhiều thách thức về việc đảm bảo chất lượng giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người học trong bối cảnh mới.
6. Dịch vụ pháp lý tại Công ty Luật Dương Gia
Luật Dương Gia chuyên cung cấp các dịch vụ giải quyết các thủ tục hành chính. Với đội ngũ Luật sư tư vấn giàu kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực và tranh tụng sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo và tốt nhất của khách hàng.
Luật Dương Gia hỗ trợ, tư vấn cho khách hàng với những cam kết sau:
- Bảo mật tuyệt đối thông tin khách hàng;
- Luật sư có kiến thức, trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực dân sự, đất đai, nhà ở, thừa kế, di chúc…
- Có kỹ năng, kinh nghiệm tư vấn pháp luật, tham gia nhận ủy quyền các thủ tục hành chính
- Có tinh thần trách nhiệm với công việc.
- Có tác phong làm việc chuyên nghiệp.
- Đưa ra phương án tối ưu, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Thông tin liên hệ để sử dụng dịch vụ của Luật Dương Gia tại Đà Nẵng:
Để sử dụng dịch vụ, vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin liên hệ chi tiết như sau:
– Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hoà Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
– Tổng đài Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900.6568 – 1900.6586
– Số điện thoại yêu cầu Luật sư tư vấn: 093.154.8999
– Email tiếp nhận yêu cầu dịch vụ: danang@luatduonggia.vn
Trên đây là tất cả nội dung liên quan đến cấp phép dạy thêm, học thêm ở Đà Nẵng. Trường hợp có thông tin thắc mắc, vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số 093.154.8999 để được giải đáp.