Quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng không phải là nội dung mới trong pháp luật dân sự Việt Nam mà đã được ghi nhận và tiếp tục duy trì trong các quy định pháp luật, vì nó phản ánh sâu sắc truyền thống, tín ngưỡng của dân tộc. Việc bảo tồn và phát huy các di sản này không chỉ thể hiện lòng tôn kính đối với cội nguồn mà còn góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa. Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp luật vào những vấn đề này vẫn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện. Vì vậy, qua bài viết này, Luật Dương Gia sẽ tập trung phân tích một số nội dung cơ bản trong quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng.
Căn cứ pháp lý:
1. Khái niệm di sản
Di sản là tài sản bao gồm bất động sản, động sản, hoa lợi; lợi tức thuộc sở hữu và sử dụng của người chết. Di sản được chia cho những người thừa kế theo di chúc hoặc pháp luật kể từ thời điểm mở thừa kế. Trong đó, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Người thừa kế là người còn sống và thường có một mối quan hệ nào đó với người đã khuất.
Di chúc là sự thể hiện ý chí của một cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi người đó qua đời. Người có tài sản lập di chúc phân chia tài sản; họ muốn tặng ai đó; và việc lập di chúc không bị chi phối bởi những người xung quanh. Và nếu chứng minh được việc lập di chúc không theo ý muốn của người để lại di sản thì di chúc bị coi là vô hiệu. Di chúc thường do cá nhân lập; hoặc vợ hoặc chồng chia tài sản của mình cho con cái. Theo nội dung của di chúc; một số người nhận được nhiều tài sản và một số người không nhận được bất kỳ tài sản nào và điều đó không hề vi phạm pháp luật.
2. Các hình thức của thừa kế
Thừa kế không chỉ là vấn đề pháp lý quan trọng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của những người thân thích và các bên liên quan. Việc xác định quyền thừa kế có thể dựa trên ý chí của người để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp lệ.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, thừa kế được chia thành hai hình thức chính: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, cụ thể
– Thừa kế theo di chúc: là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi họ còn sống được thể hiện qua việc lập di chúc (căn cứ theo Điều 624 Bộ luật dân sự 2015).
– Thừa kế theo pháp luật: là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định. Thừa kế được áp dụng trong trường hợp người chết không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp hoặc một số trường hợp khác căn cứ theo Điều 649, 650 Bộ luật dân sự 2015.
3. Quyền để lại di sản dùng vào việc thờ cúng
Căn cứ theo quy định tại Điều 626 Bộ luật dân sự 2015 về quyền của người lập di chúc thì người lập do chúc có các quyền sau:
– Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
– Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
– Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
-. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
– Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
=> Theo đó, người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để thờ cúng. Như vậy, có thể thấy tài sản để thờ cúng chỉ xuất hiện trong thừa kế theo di chúc, không có trong trường hợp thừa kế theo pháp luật
4. Di sản thờ cúng là gì ?
Mặc dù việc thờ cúng không được định nghĩa cụ thể trong quy định pháp luật, nhưng dựa trên các giá trị truyền thống văn hóa cũng như phong tục các vùng miền, ta có thể hiểu thờ cúng chính là việc để bày tỏ sự tôn kính, tri ân báo hiếu của những người còn sống đến những người đã khuất, những bậc tiền nhân, hoặc những thánh nhân mà họ tin tưởng.
Trong BLDS năm 2015 không đưa ra khái niệm về di sản nói chung và di sản dùng vào việc thờ cúng nói riêng. Tại Điều 612 BLDS năm 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Điều luật này cũng không đưa ra khái niệm thế nào là di sản mà chỉ ghi nhận di sản bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác nên có rất nhiều các quan điểm đưa ra những khái niệm khác nhau nhưng về cơ bản đều có những điểm thống nhất nhau khi cho rằng di sản dùng vào việc thờ cúng là một phần tài sản trong khối di sản của người chết và mục đích sử dụng của tài sản này là để thờ cúng tổ tiên.
Như vậy, có thể hiểu rằng “Di sản dùng vào việc thờ cúng là một phần tài sản thuộc sở hữu của người chết được xác lập theo quy định của Bộ luật Dân sự và dùng vào việc thờ cúng theo ý chí của người để lại di chúc hoặc theo thỏa thuận, phù hợp với quy định của luật và không trái đạo đức xã hội”.
5. Một số đặc điểm của di sản dùng vào việc thờ cúng
Di sản dùng vào việc thờ cúng được điều chỉnh tại một số điều luật trong BLDS năm 2015 và một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
– Về quyền để lại di sản dùng vào việc thờ cúng: Khoản 3 Điều 626 BLDS năm 2015 quy định người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để thờ cúng. Như vậy, tài sản dùng vào việc thờ cúng chỉ xuất hiện trong thừa kế theo di chúc, còn trường hợp thừa kế theo pháp luật thì không đặt ra vấn đề tài sản để thờ cúng.
– Trường hợp không được dành một phần di sản để thờ cúng:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 645 BLDS năm 2015, trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
– Về chia thừa kế di sản dùng vào việc thờ cúng. Khoản 1 Điều 645 BLDS năm 2015 quy định: Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế. Như vậy, phần di sản đã được người lập di chúc định đoạt là di sản dùng vào việc thờ cúng thì không được chi thừa kế.
– Về người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng: Khoản 1 Điều 645 BLDS năm 2015 quy định về người quản lý tài sản thờ cúng như sau:
+ Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng. Nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
+ Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
+ Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
6. Sử dụng di sản thờ cúng được thừa kế như thế nào?
Theo quy định của pháp luật, thì di sản thờ cúng sẽ không bị chia thừa kế theo bất kỳ yêu cầu của cá nhân nào có quyền hưởng thừa kế của người đã chết. Di sản thờ cúng chỉ được sử dụng vào mục đích thờ cúng tổ tiên, người đã chết trong gia đình hoặc những người mà họ đặt lòng tin và được giao cho một chủ thể nhất định đại diện để quản lý di sản thờ cúng. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định pháp luật thì di sản sẽ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Như vậy, dựa trê những nội dung đã phân tích, có thể thấy rằng di sản dùng vào thờ cúng là một phần tài sản thuộc sở hữu của người chết được xác lập theo quy định của Bộ luật Dân sự và dùng vào việc thờ cúng theo ý chí của người để lại di chúc.
7. Di sản thờ cúng có được bán không?
Khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 quy định đối với trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng.
Căn cứ vào quy định trên, có thể thấy rằng, di sản dùng vào việc thờ cúng thì không được chia thừa kế. Hay nói cách khác, bản thân phần di sản thờ cúng chỉ dùng vào việc thờ cúng, không thuộc sở hữu của người thừa kế hay người khác.
Đồng thời, phần di sản này được trao cho người có tên được chỉ định trong di chúc để quản lý. Điều 645 Bộ luật Dân sự 2016 quy định như sau:
– Người lập di chúc chỉ định một người quản lý di sản thờ cúng;
– Người thừa kế chuyển giao phần di sản thờ cúng cho người khác quản lý, nếu người được cử không thực hiện đúng di chúc hoặc không thực hiện đúng thỏa thuận của người thừa kế;
– Người quản lý di sản được cử bởi người thừa kế, trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản. Nếu tất cả những người thừa kế theo di chúc đều chết thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người quản lý hợp pháp trong số những người thừa kế theo pháp luật.
Kết luận: Di sản thờ cúng được lập theo ý chí của người lập di chúc. Phần di sản này không được chia thừa kế nên không được bán phần di sản này, trừ trường hợp toàn bộ di sản không thanh toán đủ nghĩa vụ của người chết để lại.
Trên đây là những nội dung liên quan đến những vấn đề thừa kế nói chung cũng như di sản dùng vào thờ cúng nói riêng. Trường hợp có thắc mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý, Luật Dương Gia chính là lựa chọn hoàn hảo dành cho bạn, vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo thông tin bên dưới:
CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0931548999; 02367300899
Với đội ngũ luật sư tâm huyết, giàu kinh nghiệm của chúng tôi luôn sẵn sàng đồng hành cùng bạn, mang đến cho bạn giải pháp pháp lý phù hợp nhất.