HIV/AIDS là một căn bệnh nguy hiểm, không chỉ gây ra những tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của cá nhân mắc bệnh mà còn tạo ra mối đe dọa lớn đối với sức khỏe cộng đồng. Đây không chỉ là vấn đề y tế mà còn là một thách thức về đạo đức, xã hội và pháp lý. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam đã đặt ra những quy định chặt chẽ nhằm kiểm soát, phòng chống lây nhiễm HIV, đồng thời nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc các hành vi cố ý làm lây truyền HIV cho người khác, nhằm ngăn chặn nguy cơ lây lan của căn bệnh này, góp phần xây dựng một cộng đồng khỏe mạnh, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của mỗi cá nhân. Trên cơ sở đó, hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu chi tiết hơn về vấn đề này thông qua bài viết dưới đây.
1. Khái niệm lây truyền HIV
Theo quy định tại Điều 148 Bộ luật Hình sự 2015, lây truyền HIV cho người khác được hiểu là hành vi của người biết mình bị nhiễm HIV nhưng vẫn làm cho virut HIV từ cơ thể mình xâm nhập vào cơ thể người khác một cách cố ý.
Cụ thể, người phạm tội có các hành vi như: dùng kim tiêm chọc vào người mình rồi chọc vào người khác; dùng dao, mảnh chai rạch tay, chân mình cho máu dính vào rồi rạch vào người khác; đem máu của mình cho người khác, quan hệ tình dục bừa bãi với người khác.
Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ không bị coi là phạm tội lây truyền HIV cho người khác nếu là người mẹ nhiễm HIV đã đẻ ra con cũng bị nhiễm bệnh này; hoặc trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm bệnh của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục. Theo đó, điều kiện tiên quyết để người lây truyền HIV bị coi là phạm tội buộc phải là nạn nhân không biết hoặc không thể biết người có quan hệ với mình bị nhiễm HIV.
2. Dấu hiệu cấu thành tội phạm
2.1. Khách thể
Khách thể trực tiếp của tội lây truyền HIV cho người khác là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của con người.
2.2. Mặt khách quan
Về hành vi thì người bị nhiễm HIV đã biết rõ mình bị nhiễm HIV nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi truyền HIV vào cơ thể người khác HIV là loại vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
Hậu quả gây ra là người bị truyền HIV bị nhiễm HIV là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự với người phạm tội, nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi cố ý truyền HIV cho người khác nhưng nạn nhân lại không bị nhiễm HIV thì thường không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nhưng đây không phải là trường hợp bắt buộc trong mọi trường hợp. Việc xác định người bị hại có bị nhiễm HIV hay không là căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, nếu kết quả giám định của Hội đồng giám định còn có những vấn đề chưa rõ thì yêu cầu giám định lại.
Việc xác định người bị hại có nhiễm HIV hay không không được chỉ dựa vào việc người phạm tội có nhiễm HIV và phương pháp người đó đã lây truyền HIV cho bị hại mà phải căn cứ vào kết luận của của Hội đồng giám định pháp y. Trường hợp kết luận giám định pháp y có điểm chưa rõ thì cần phải yêu cầu giám định lại. Kết luận của Hội đồng giám định pháp y là yếu tố tiên quyết để làm căn cứ xác định tội danh này.
2.3. Chủ thể
Người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi). Bên cạnh đó, chủ thể thực hiện hành vi phải là người bị nhiễm HIV, có chủ đích cố ý truyền HIV cho người khác
2.4. Mặt chủ quan
Tội lây truyền HIV cho người khác được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội phải biết là mình bị nhiễm HIV và họ cũng biết hành vi mà mình thực hiện có khả năng là cho HIV từ mình lây truyền sang người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
3. Mức hình phạt hình sự đối với tội danh
Theo quy định tại Điều 148 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội lây truyền HIV cho người khác quy định mức hình phạt như sau:
3.1. Khung 01 (Khoản 1)
Có mức phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Được áp dụng đối với trường hợp có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan và chủ quan. Tức là trường hợp người phạm tội chỉ lây truyền HIV cho một người và không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Khoản 2 Điều 148 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 148 có khung hình phạt từ 01 năm đến 03 năm tù. Đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự thì có thể chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn hoặc nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo.
3.2. Khung 02 (Khoản 2)
Phạt tù từ ba năm đến bảy năm, được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Đối với 02 người trở lên
Trường hợp cố ý lây truyền HIV cho nhiều người nhưng chỉ có một người bị nhiễm còn các người khác không bị nhiễm HIV thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về trường hợp “đối với nhiều người”. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Tòa án có thể cân nhắc giảm nhẹ một phần hình phạt cho người phạm tội vì hành vi phạm tội của bị cáo chỉ hoàn thành đối với một người còn những người khác là phạm tội chưa đạt.
Nếu tất cả những người bị lây truyền HIV đều không bị nhiễm HIV thì người phạm tội vẫn bị truy coi là phạm tội đối với nhiều người, nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội không bằng trường hợp có một người hoặc nhiều người bị nhiễm HIV và nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự thì có thể được Tòa án áp dụng mức hình phạt quy định tại Khoản 1 Điều 148.
+ Đối với người dưới 18 tuổi
Trường hợp phạm tội này, người bị nhiễm HIV là người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi). Việc xác định tuổi của người bị hại được căn cứ vào giấy khai sinh hoặc giấy tờ có căn cứ xác định tuổi thật của người bị hại. Trường hợp đã làm hết mọi cách mà không xác định được tuổi thật của người bị hại thì áp dụng nguyên tắc xác định tuổi của người bị hại theo hướng có lợi cho người phạm tội.
+ Đối với phụ nữ mà biết là có thai
Một trong những con đường lây nhiễm HIV là lây truyền từ mẹ sang con. Bởi vậy phạm tội với phụ nữ có thai là một trường hợp nghiêm trọng bởi có khả năng ảnh hưởng đến thai nhi. Trường hợp này, người bị nhiễm HIV là phụ nữ có thai. Người thực hiện hành vi cố ý lây truyền cho người bị hại phải biết là nạn nhân đang có thai.
+ Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình
Người bị hại trong trường hợp phạm tội này là người trực tiếp chữa bệnh cho người phạm tội họ có thể là bác sĩ, y sĩ, y tá, hộ lý hoặc nhân viên y tế khác. Nếu người phạm tội lây truyền HIV cho thầy thuốc hoặc nhân viên y tế, nhưng những người này không trực tiếp chữa bệnh cho người phạm tội thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điểm d Khoản 2 Điều 148.
+ Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, trường hợp phạm tội này người phạm tội không vì động cơ cản trở người thi hành công vụ mà có thể vì bất cứ động cơ nào. Tuy nhiên, nếu vì lý do công vụ của nạn nhân mà người phạm tội có ý truyền HIV cho họ thì cần xác định nạn nhân phải là người đã thi hành một công vụ và vì việc thi hành công vụ đó mà bị người phạm tội cố ý lây truyền HIV cho họ thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điểm d Khoản 2 Điều 117 Bộ luật hình sự.
4. So sánh Tội lây truyền HIV cho người khác và Tội cố ý truyền HIV cho người khác
Tiêu chí | Tội lây truyền HIV cho người khác | Tội cố ý truyền HIV cho người khác |
Căn cứ pháp lý | Điều 148 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 | Điều 149 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 |
Hành vi | Cố ý lây truyền HIV cho người khác (từ cơ thể mình) dù biết mình đã bị nhiễm HIV. | Cố ý truyền HIV cho người khác từ ngoài vào chứ không phải từ cơ thể mình. |
Chủ thể tội phạm | Là người bị nhiễm HIV và từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự | Là người bình thường, từ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự |
Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự | Khi nạn nhân bị nhiêm HIV từ người phạm tội | Khi có hành vi cố ý truyền HIV cho người khác từ ngoài vào chứ không phải từ cơ thể mình |
Lỗi | Lỗi cố ý gián tiếp | Lỗi cố ý trực tiếp |
Hình phạt | Điều 148 Bộ luật Hình sự quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm tội, trong đó, khung hình phạt cao nhất là 07 năm tù. | Điều 149 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với người phạm tội, trong đó, khung hình phạt cao nhất có thể lên đến 20 năm tù hoặc tù chung thân
Bên cạnh đó, khung hình phạt bổ sung, người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Trên đây là những thông tin liên quan đến tội danh này, hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 hoặc thông tin bên dưới để được tư vấn cụ thể.
CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0931548999; 02367300899