Những điểm mới về giao dịch đảm bảo theo Bộ luật dân sự năm 2015

nhung-diem-moi-ve-giao-dich-dam-bao-theo-bo-luat-dan-su-nam-2015

Một trong những nội dung quan trọng trong Bộ luật dân sự đó là nghĩa vụ dân sự. Bản chất quan hệ nghĩa vụ dân sự là quan hệ mang tính đối nhân, tức là quyền của một chủ thể chỉ có thể được đáp ứng nếu chủ thể phía bên kia cũng thực hiện nghĩa vụ của mình. Do vậy, để đảm bảo tính an toàn về mặt pháp lý cho chủ thể mang quyền, các giao dịch bảo đảm đã ra đời nhằm dự phòng cho trường hợp khi nghĩa vụ bị vi phạm thì đối tượng của các giao dịch bảo đảm sẽ được xử lý để khấu trừ cho phần giá trị nghĩa vụ vi phạm đó. Xuất phát từ khía cạnh này mà các giao dịch bảo đảm đã trở thành một chốt chặn pháp lý quan trọng trong BLDS với các quy định tương đối chi tiết và đầy đủ. Tuy nhiên, xã hội luôn thay đổi không ngừng và bản thân các quy định pháp luật cũng phải được nghiên cứu toàn diện để theo kịp sự thay đổi đó. Do vậy, trong quá trình sửa đổi BLDS 2015, giao dịch bảo đảm cũng là một nội dung được xem xét rất cẩn thận với 59 Điều luật được quy định từ Điều 292 đến Điều 350. Dưới đây là một số điểm mới của BLDS 2015 về các giao dịch bảo đảm:

1. Về vị trí, kết cấu

Trong BLDS 2005, các nội dung về giao dịch bảo đảm được quy định tại Mục 5, phía sau các nội dung Nghĩa vụ dân sự, Thực hiện nghĩa vụ dân sự, Trách nhiệm dân sự và Chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ dân sự. Chúng ta có thể thấy rằng sự sắp xếp về mặt kết cấu như vậy trong BLDS 2005 là chưa thực sự hợp lý khi bản thân Trách nhiệm dân sự là một loại chế tài chỉ được áp dụng trong trường hợp nghĩa vụ đã bị vi phạm, do vậy lúc này nó không có tính ngăn chặn hay dự phòng mà chỉ để giải quyết hậu quả nhằm khôi phục lại tình trạng như trước khi bị vi phạm. Vì thế, các nội dung liên quan đến trách nhiệm dân sự nên được sắp xếp ở vị trí cuối cùng, còn quy định về giao dịch bảo đảm – vốn mang tính ngăn chặn vi phạm nghĩa vụ – cần phải được sắp xếp sau nội dung về thực hiện nghĩa vụ. Do đó, theo kết cấu mới tại BLDS 2015 khi quy định về giao dịch bảo đảm được xếp ở Mục 3 – sau nội dung về Căn cứ phát sinh và đối tượng của nghĩa vụ cũng như Thực hiện nghĩa vụ là hoàn toàn hợp lý về tính xuyên suốt cũng như logic trong việc sắp xếp nội dung trong mảng Nghĩa vụ dân sự.

2. Về số lượng các biện pháp bảo đảm

Trong BLDS hiện hành, theo quy định tại Điều 318 có tất cả là 7 biện pháp. Tuy nhiên, theo quy định trong Bộ luật mới, ngoài 7 biện pháp cũ vẫn được giữ nguyên thì còn bổ sung thêm 2 biện pháp bảo đảm mới là Bảo lưu quyền sở hữuCầm giữ tài sản. Về mặt bản chất thì đây không phải 2 nội dung hoàn toàn mới mà đã được đề cập tại BLDS hiện hành dưới góc độ khác. Cụ thể Bảo lưu quyền sở hữu đã được quy định như là một cách thức để bảo vệ quyền lợi của bên bán trong Hợp đồng mua trả chậm trả dần tại Điều 461. Còn Cầm giữ tài sản lại được quy định trong phần Thực hiện hợp đồng tại Điều 416, với ý nghĩa mà bên có quyền sử dụng để gây sức ép nhằm buộc bên có nghĩa vụ trong Hợp đồng song vụ phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Trong BLDS 2015, việc 2 nội dung này đã được nâng tầm lên trở thành các biện pháp bảo đảm cho thấy cách tiếp cận mong muốn nhấn mạnh hơn của Bộ luật vào tính chất bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tồn tại ở trong 2 biện pháp này chứ không chỉ là một nội dung đơn thuần trong các quy định về các loại hợp đồng.

3. BLDS có đưa ra một quy định hoàn toàn mới về việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai.

Không phải BLDS hiện hành không nhắc đến nghĩa vụ trong tương lai mà thuật ngữ này đã được đề cập đến tại khoản 2 Điều 319 BLDS 2005. Tuy nhiên, nhắc đến là một chuyện mà thực sự đưa ra được quy định để làm rõ và đi sâu vào chi tiết của thuật ngữ đó lại là một câu chuyện khác mà ở đây, BLDS 2015 đã cho thấy sự tiến bộ rõ rệt khi dành toàn bộ Điều 294 để nói về loại nghĩa vụ này. Đồng thời, BLDS 2015 cũng qua điều khoản này đã đơn giản hóa đáng kể thủ tục giao kết, thực hiện hợp đồng bảo đảm nhằm tạo thuận lợi tối đa cho các bên tham gia quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, cụ thể theo quy định tại khoản 2 Điều 294 thì các bên chỉ cần tiến hành thỏa thuận, giao kết một lần về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hình thành trong tương lai. Khi nghĩa vụ trong tương lại được hình thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó, bao gồm cả việc ký kết lại hợp đồng bảo đảm, công chứng cũng như đăng ký biện pháp bảo đảm. Tuy nhiên, Điều 294 vẫn chưa nêu cụ thể như thế nào được coi là nghĩa vụ hình thành trong tương lai cũng như chưa quy định rõ nguồn gốc hình thành nên nghĩa vụ này, thời hạn cho nghĩa vụ bảo đảm đó, những nghĩa vụ phát sinh sau thời hạn đó thì được đảm bảo. Đây là một điểm hạn chế trong quy định này.

4. BLDS 2015 đã hoàn thiện cơ chế làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm

BLDS năm 2005 chưa quy định cụ thể về các phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Tại khoản 3 Điều 323 BLDS 2005 mới chỉ quy định: “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký.” Khắc phục hạn chế này, BLDS năm 2015 đã hoàn thiện cơ chế làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Cụ thể là, lần đầu tiên BLDS năm 2015 đã quy định một cách chi tiết về hai phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm, đó là: (1) nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm và (2) đăng ký biện pháp bảo đảm (Điều 297 BLDS năm 2015).

Việc bổ sung nắm giữ là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm, độc lập và bình đẳng với phương thức đăng ký là hoàn toàn phù hợp và thống nhất với nguyên tắc bảo vệ “tình trạng hòa bình” của việc chiếm hữu thực tế mà BLDS năm 2015 hướng đến. Theo đó, về nguyên tắc, chủ thể nào đang nắm giữ trực tiếp (chiếm hữu thực tế) tài sản thì được suy đoán là chủ thể có quyền đối với tài sản được nắm giữ (khoản 1, khoản 2 Điều 184 BLDS 2015). Quan điểm này tiếp cận vào quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở chỗ, tình trạng nắm giữ tài sản bảo đảm cũng được xem là căn cứ xác định biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, bình đẳng với phương thức đăng ký và bên nhận bảo đảm đang nắm giữ tài sản bảo đảm hoàn toàn bình đẳng với bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm được đăng ký trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ, đặc biệt là quyền thanh toán theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ. (Điều 308 BLDS 2015).

Về vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm, BLDS 2005 tiếp cận điều này dước góc độ là nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thế chấp (khoản 2 Điều 350, khoản 2 Điều 717, khoản 1 Điều 719), đồng thời cũng là điều kiện bắt buộc về mặt hình thức để một số giao dịch bảo đảm phát sinh hiệu lực. Tuy nhiên, BLDS 2015 đã có cách tiếp cận mang tính chất đổi mới về đăng ký biện pháp bảo đảm, đó là lần đầu tiên đã nhìn nhận đăng ký biện pháp bảo đảm dưới góc độ “quyền” của các chủ thể, cụ thể theo quy định của khoản 4 Điều 323 BLDS 2015, đăng ký thế chấp được nhận diện là “quyền” của bên nhận thế chấp. Việc tiếp cận đăng ký biện pháp bảo đảm dưới góc độ là quyền của BLDS 2015 có ý nghĩa rất lớn tác động đến cơ chế điều chỉnh đối với pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm. Bởi lẽ, một khi đăng ký biện pháp bảo đảm được nhìn nhận dưới góc độ là quyền thì pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm sẽ phải điều chỉnh theo hướng hỗ trợ, tạo thuận lợi cho người dân trong việc thực hiện quyền dân sự của mình chứ không chỉ dừng lại ở mức độ mô tả hành vi, các bước thực hiện thủ tục hành chính thuần túy. Hay nói cách khác, khi nhìn nhận đăng ký biện pháp bảo đảm với tư cách quyền dân sự của người dân, thì cơ chế pháp lý điều chỉnh sẽ phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, những quy định cản trở người dân thực hiện quyền sẽ phải bị loại bỏ, từ đó góp phần phát huy dân chủ, bảo vệ và bảo đảm hơn nữa quyền của công dân trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm.

5. Về xử lý tài sản bảo đảm

Chúng ta thấy rằng quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm chỉ được thực hiện thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm đã giao kết. Hay nói cách khác, quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm được thực thi trong sự phụ thuộc vào ý chí của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản). Bên nhận bảo đảm không có quyền trực tiếp mang tính chất chi phối và ngay tức khắc đối với tài sản bảo đảm. Trường hợp bên bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết thì bên nhận bảo đảm chỉ có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết (Điều 721 BLDS 2005).

Chính cách tiếp cận này đã làm cho thủ tục xử lý tài sản bảo đảm phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản). Trong khi đó, xử lý tài sản bảo đảm dẫn đến sự dịch chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên bảo đảm sang người mua hoặc bên nhận bảo đảm (trong trường hợp bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm). Do vậy, bên bảo đảm thường có thái độ thiếu thiện chí, thậm chí là bất hợp tác, chây ỳ trong việc chuyển giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý. Thực tế này đã làm cho bên nhận bảo đảm trở thành bên có “vị thế yếu” đối với tài sản bảo đảm, trong khi đó, đáng lẽ ra, theo quy định của pháp luật và hợp đồng bảo đảm đã giao kết, họ có toàn quyền xử lý để thu hồi nợ khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận.

Để khắc phục những khiếm khuyết này, BLDS 2015 bước đầu đã ghi nhận và thể hiện được một số nội dung để tăng cường tính chủ động của bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Cụ thể là, lần đầu tiên, BLDS 2015 đã quy định một cách cụ thể hai đặc điểm quan trọng của vật quyền bảo đảm, đó là quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm trong trường hợp biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Theo quy định của khoản 2 Điều 297 BLDS 2015 thì: “Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Việc bổ sung quy định về quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền được ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm thể hiện sự hài hòa hóa yếu tố vật quyền trong quan hệ trái quyền khi điều chỉnh quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của BLDS 2015. Việc hài hòa hóa này là phù hợp với bản chất “chứa đựng cả yếu tố trái quyền và yếu tố vật quyền” của biện pháp bảo đảm; đồng thời cũng rất cần thiết vì nó xử lý được những vấn đề mà thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm đang đặt ra khi cần thiết tạo cho bên xử lý tài sản bảo đảm có được quyền chủ động nhất định trong việc xử lý tài sản và rõ ràng, hai quyền này đã tạo nên một vị thể hoàn toàn khác biệt trong các trường hợp này.

Về thứ tự ưu tiên thanh toán, BLDS 2005 quy định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm được xác định căn cứ theo thứ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm (Trong trường hợp một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà các giao dịch bảo đảm đều không có đăng ký). Tại BLDS 2015, thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm được xác định căn cứ theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba hoặc thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm. Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm (thế chấp tài sản, cầm cố tài sản trong trường hợp tài sản nhận cầm cố là bất động sản) hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm (cầm cố tài sản đối với các tài sản khác).

Theo đó, thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tại Điều 308 BLDS 2015 như sau:

1. Khi một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định như sau:

a) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thìthứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng;

b) Trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được thanh toán trước;

c) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm.

d) Thứ tự ưu tiên thanh toán quy định tại khoản 1 Điều này có thể thay đổi, nếu các bên cùng nhận bảo đảm có thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhau. Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền”.

6. Về biện pháp cầm cố

Một trong những thay đổi quan trọng của BLDS 2015 liên quan đến biện pháp cầm cố tài sản đó chính là thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng cầm cố. Trong BLDS 2005, tại Điều 328 đã quy định hợp đồng cầm cố phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố. Theo quan điểm của người viết, việc quy định thời điểm phát sinh hiệu lực như vậy là hoàn toàn phù hợp và thống nhất với khái niệm về cầm cố tại Điều 326 “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình…”. Khái niệm của cầm cố tài sản trong cả 2 Bộ luật đều không thay đổi và đều có tính chất phải chuyển giao tài sản. Do vậy, việc hợp đồng cầm cố có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản sẽ nhấn mạnh tính chất phải chuyển giao tài sản để đảm bảo quyền lợi cho bên nhận cầm cố. Tuy nhiên, BLDS 2015 tại khoản 1 Điều 310 lại đưa ra thời điểm có hiệu lực của cầm cố là tại thời điểm giao kết. Điều này dẫn đến hậu quả pháp lý là tính chất chuyển giao tài sản lúc này chỉ còn là một nghĩa vụ thông thường trong hợp đồng cầm cố và mang tính đối kháng với người thứ ba chứ không còn mang tính chất quyết định đến hiệu lực phát sinh của hợp đồng nữa. Đồng thời, liên quan đến hình thức của hợp đồng cầm cố, tại Điều 327 BLDS 2005 có quy định về mặt hình thức, đó là bắt buộc phải lập thành văn bản. Tuy nhiên trong BLDS 2015, hình thức không còn là điều kiện bắt buộc của hợp đồng cầm cố. Điều đó có nghĩa là các bên có thể lựa chọn hình thức bằng miệng, bằng văn bản hoặc văn bản có công chứng, chứng thực. Điều này lại càng khiến cho tính chất chuyển giao tài sản trong việc phát sinh hiệu lực hợp đồng trở nên đặc biệt quan trọng, đặc biệt khi hợp đồng không được lập thành văn bản. Do vậy, đây thực sự là một sai lầm nghiêm trọng và không cần thiết phải sửa đổi khi việc quy định như trong BLDS 2005 đã là hợp lý và phù hợp.

Một trong số các quy định mới của BLDS 2015 là cho phép cầm cố cả bất động sản (khoản 2, Điều 310), bên cạnh việc thế chấp bất động sản. Có lẽ Bộ luật hy vọng rằng điều này sẽ tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn cho các bên trong các giao dịch tài chính và thương mại. Tuy vậy cách tiếp cận này chưa thực sự hợp lý.Thực vậy, do cầm cố chỉ được xác lập đối với một tài sản mà quyền sở hữu có thể được chuyển giao thông qua việc trao quyền chiếm hữu tài sản đó như hàng hóa (động sản) hay giấy tờ có giá. Bất động sản chỉ có thể chuyển giao thông qua hợp đồng, văn bản được công chứng hay chứng thực và được đăng ký với văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất chứ không phải thông qua việc trao quyền chiếm hữu bất động sản đó cho chủ nợ có bảo đảm. Chính vì lý do đó mà tại nhiều nước không có giao dịch cầm cố bất động sản.Tại Pháp, cầm cố bất động sản dù chính thức được luật hóa song không có chỗ đứng trong số các giao dịch bảo đảm đối với bất động sản. Đây là một hợp đồng theo đó bên có nghĩa vụ trao cho chủ nợ quyền chiếm hữu một bất động sản, cùng với quyền thu hoa lợi, lợi tức (tiền cho thuê bất động sản) để sử dụng vào việc thanh toán hàng năm nợ lãi và sau đó là nợ gốc đến khi trả xong khoản nợ. Điểm bất lợi của biện pháp bảo đảm này là bên nhận bảo đảm có rất nhiều nghĩa vụ như quản lý bất động sản được cầm cố, bảo quản và thực hiện việc cải tạo, sửa chữa cần thiết bất động sản cũng như đóng các khoản phí và đóng góp hàng năm liên quan đến bất động sản. Hơn nữa, bên cầm cố bị tước quyền khai thác và sử dụng bất động sản. Chính vì thế, bên nhận bảo đảm thường cho bên bảo đảm thuê lại bất động sản được thế chấp và do đó, việc chuyển giao quyền chiếm hữu thực chất là việc chuyển giao về mặt pháp lý chứ không phải chuyển giao về mặt thực tế. Nói cách khác, cơ chế này kéo theo việc triển khai nhiều cơ chế hợp đồng khác nhau, phát sinh chi phí và cuối cùng lại trở về giống với biện pháp thế chấp.

7. Về biện pháp thế chấp

Điểm mới đầu tiên trong quy định về biện pháp thế chấp tại BLDS 2015 đó là về hiệu lực của hợp đồng thế chấp. Trước đây BLDS 2005 không có bất kỳ quy định nào về hiệu lực của hợp đồng thế chấp, do đó khi xác định hiệu lực các bên phải sử dụng quy định chung về hiệu lực của hợp đồng dân sự tại Điều 405. Do vậy, với quy định về hiệu lực của thế chấp tại Điều 319 BLDS 2015, các bên khi giao kết hợp đồng thế chấp sẽ có cơ sở cụ thể và trực tiếp để áp dụng thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chứ không cần phải áp dụng các quy định chung nữa.

Đồng thời trong BLDS 2015, một số quy định liên quan đến thời hạn thế chấp, thế chấp tài sản đang cho thuê, thế chấp một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, thế chấp tài sản được bảo hiểm cũng đã được lược đi với mong muốn cấu trúc của Bộ luật mới sẽ tinh giản và gọn nhẹ hơn, đồng thời mở đường cho các quy định bị lược bỏ nêu trên được quy định trong phần riêng liên quan đến tài sản đó. Tuy nhiên, theo quan điểm của người viết, việc lược bỏ này sẽ khiến cho tổng thể các quy định liên quan đến thế chấp tài sản trở nên chung chung hơn, thiếu sự cụ thể khi giải quyết các tình huống thực tế. Thông thường như quy định tại BLDS 2005, khi vướng mắc liên quan đến việc giải quyết một tài sản dùng để thế chấp, chúng ta có thể áp dụng ngay lập tức các quy định này khi các cơ sở pháp lý tương đối rõ ràng. Tuy nhiên trong Bộ luật mới, điều này sẽ bước đầu tạo nên khó khăn cho các chủ thể trong quá trình áp dụng và thực hiện pháp luật.

Về tổng thể liên quan đến biện pháp thế chấp tài sản, người viết đánh giá rằng gần như không có sự đột phá đáng kể trong việc thay đổi và đưa ra các quy định mới, mà cơ bản sự thay đổi được đưa ra liên quan đến cấu trúc và cách thức sắp xếp nội dung của các quy định cũ mà thôi. Một số quy định mới được pháp điển hóa lên từ các văn bản hướng dẫn BLDS 2005 như Nghị định 163/2006, Nghị định 83/2010 hay Nghị định 11/2012. Việc pháp điển hóa này sẽ giúp cho người đọc nắm được một cách tổng thể cấu trúc các quy định mang tính tập trung hơn vào nội dung 1 văn bản chính, hơn là bị xẻ ra thành nhiều các văn bản khác nhau như trước đây.

8. Về các quy định liên quan đến đặt cọc, ký cược, ký quỹ và bảo lãnh

Quy định liên quan đến các biện pháp bảo đảm nêu trên cơ bản được giữ nguyên như BLDS năm 2005. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, đối với biện pháp đặt cọc, ký cược, ký quỹ, BLDS 2015 cần bổ sung một số vấn đề cụ thể như: Nghĩa vụ, quyền của bên đặt cọc, bên ký cược, bên ký quỹ; nghĩa vụ, quyền của bên nhận đặt cọc, nhận ký cược, nhận ký quỹ… Quy định như Bộ luật 2015 hiện mới chỉ mang tính chung nhất nên có thể dẫn đến khó khăn cho các bên trong quá trình thực hiện, đặc biệt là khi phát sinh các tranh chấp. Đối với biện pháp bảo lãnh, nhìn chung BLDS 2015 đã điều chỉnh tương đối đầy đủ, nhưng chúng ta thấy rằng nếu vẫn giữ quan điểm chỉ được cầm cố, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ của chính chủ sở hữu (không được cầm cố, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ của người khác) thì biện pháp bảo lãnh phải được thiết kế lại theo hướng tách bạch rõ ràng 2 cơ chế để các bên lựa chọn khi giao kết hợp đồng, đó là “bảo lãnh bằng tài sản cụ thể” hoặc “bảo lãnh không bằng tài sản”. Đồng thời, nếu lựa chọn phương án nêu trên thì cũng phải tính đến việc xử lý mối quan hệ giữa BLDS với các Luật chuyên ngành (Luật Đất đai năm 2013 và Luật Nhà ở năm 2014) để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật, đặc biệt liên quan trực tiếp đến 02 loại tài sản có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi chúng ta là đất và nhà.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon