Hiện nay, vẫn còn tồn tại rất nhiều trường hợp con người bị hành hạ, các quyền con người bị xâm phạm vẫn diễn ra hằng ngày. Tuy nhiên, việc phát hiện và xử lý đối với các đối tượng có hành vi hành hạ người khác chưa nhiều, chưa hiệu quả gây rất nhiều bức xúc trong xã hội. Vì vậy, cùng Luật Dương Gia tìm hiểu về Tội hành hạ người khác qua nội dung cụ thể dưới đây.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
1. Quy định của pháp luật về Tội hành hạ người khác
Theo điều 140 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội hành hạ người khác:
“Điều 140. Tội hành hạ người khác
1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên.”
https://danang.luatduonggia.vn/dich-vu-luat-su/luat-su-tu-van-phap-luat-tai-da-nang.html
2. Các dấu hiệu pháp lý
2.1. Mặt khách quan của tội hành hạ người khác
– Hành vi của người phạm tội
Đây là các hành vi chủ quan, thực hiện đối xử tàn ác, hành hạ người lệ thuộc mình. Thực hiện các hành động bạo lực như đánh đạp một cách có hệ thống. Hành vi này được thực hiện nhiều lần, lặp đi lặp lại.
Do đó, hành vi này không chỉ gây đau đớn về thể xác mà còn gây đau khổ về tinh thần cho người bị hành hạ. Họ không được đảm bảo về tâm lý, về sức khỏe cũng như các quyền tự do cơ bản của công dân. Các thương tích ở mức nhẹ, do đó không cấu thành tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
– Hành vi khách quan
Thực hiện các hành vi chủ quan bên trên, tuy nhiên người bị hành hạ không tự sát. Nếu người bị hại tự sát sẽ cấu thành tội bức tử.
2.2. Khách thể của tội phạm
Hành vi này xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, các quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi này gây nên những thiệt hại nhất định cho con người.
2.3. Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Người thực hiện hành vi hành hạ biết rõ mức độ nguy hiểm của hành vi mà mình gây ra, nhận thức rõ hành vi đó có thể gây tổn hại đến thể chất và tinh thần người lệ thuộc. Người phạm tội thấy trước được hậu quả của tội phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
2.4. Chủ thể của tội hành hạ người khác
Chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Chủ thể của tội này là người có quan hệ với nạn nhân: nạn nhân là người lệ thuộc vào chủ thể của tội phạm (có nhiều mối quan hệ lệ thuộc).
Chủ thể có hành vi hành hạ người lệ thuộc mình trong mối quan hệ gia đình thì chịu hình phạt theo Điều 185 Bộ luật hình sự (tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình).
Nếu chủ thể hành vi hành hạ người lệ thuộc mình trong mối quan hệ giữa người chỉ huy và cấp dưới trong lực lượng vũ trang, thì chịu hình phạt theo Điều 397 Bộ luật hình sự (tội làm nhục đồng đội).
Nếu hành vi hành hạ người khác không thuộc một trong hai trường hợp trên thì chịu sự điều chỉnh của Điều 140 Bộ luật hình sự về tội hành hạ người khác.
3. Đối với người bị hại
Người bị hại phải là người có quan hệ lệ thuộc vào người phạm tội. Nếu không có mối quan hệ lệ thuộc thì hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác quy định Điều 121 Bộ luật hình sự.
Sự lệ thuộc được hiểu trong bản chất rộng về vật chất hoặc tinh thần. Có thể hiểu trên các mỗi quan hệ thuộc phương diện sau:
+ Nhóm quan hệ công tác thủ trưởng nhân viên, quan hệ thầy trò, quan hệ tôn giáo, quan hệ giữa người làm công với chủ, nhất là đối với mốt số nhà hành khác sạn tư nhân,…
+ Nhóm quan hệ hôn nhân vợ chồng, quan hệ huyết thống cha mẹ với các con, ông bà với các cháu, quan hệ nuôi dưỡng cha mẹ nuôi với con nuôi, người đỡ đầu với người được đỡ đầu.
Các tính chất phụ thuộc được thể hiện trên các khía cạnh khác nhau. Có thể là trong hoạt động gia đình ở các mỗi quan hệ được xác định bên trên. Hoặc trong yếu tố học tập, công việc, người bị hại thường phụ thuộc và người phạm tội ở một số quyền lợi hay lợi ích thức tế. Nếu chống trả, họ có thể phải chịu thiệt thòi ở các quyền đó. Cho nên thông thường người bị hại thường lựa chọn cách im lặng và chịu đựng.
4. Các trường hợp phạm tội cụ thể
Các hành vi được thực hiện đối với một người bị hại. Người này không thuộc nhóm đối tượng đặc biệt như người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật.
4.1. Các trường hợp phạm tội thông thường
Trong trường hợp này, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự. Khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Tùy thuộc vào mức độ, tính chất của hành vi và hậu quả thực tế, Tòa án quyết định hình phạt cụ thể cho đối tượng.
Có thể coi các trường hợp thông thường là trường hợp còn lại sau khi đã loại bỏ các hành vi phạm tội đặc biệt bên dưới. Khi đó, không có tính chất đặc biệt về chủ thể là người bị hại.
4.2. Phạm tội đối với người già yếu, ốm đau
Là trường hợp người phạm tội đối xử tàn ác với người già yếu, ốm đau lệ thuộc vào người phạm tội. Bộ luật hình sự năm 2015 tại Điều 51 và Điều 52 đã loại bỏ quy định “Người già” và thay bằng khái niệm “Người từ 70 tuổi trở lên”.
Do đó không cần thiết phải xác định người phạm tội có biết người mình xâm phạm là người già mà căn cứ vào tuổi của người bị xâm phạm mà pháp luật xác định người phạm tội có phạm tội đối với người già yếu hay không.
4.3. Phạm tội đối với trẻ em
Phạm tội đối với trẻ em được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trẻ em là người không có khả năng tự vệ. Do đó khi xác định mức độ tăng nặng của tình tiết này sẽ phụ thuộc vào độ tuổi của nạn nhân. Nếu trẻ em càng ít tuổi, sự kháng cự ngày càng yếu ớt thì mức tăng nặng càng nhiều.
Người bị hành hạ trong trường hợp là người lệ thuộc, theo độ tuổi pháp luật quy định là trẻ em. Theo Điều 1 Luật Trẻ em 2016 thì trẻ em là người dưới 16 tuổi. Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước, không có khả năng tự vệ ở mức độ cao. Do đó nhà nước cần có các chính sách pháp luật cụ thể để bảo vệ cho người ở độ tuổi này.
Người phạm tội không cần nhận thức được hay không độ tuổi chính xác của người phạm tội. Khi họ hành hạ trẻ em, họ đương nhiên phạm tội theo quy định của Điều luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng xác định độ tuổi của trẻ em qua Giấy khai sinh hay các giấy tờ liên quan khác.
4.4. Phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai
Trên thực tế khi bị ảnh hưởng đến tâm lý, sức khỏe của người bị hành hạ và thai nhi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy các hậu quả xảy ra đối với sinh mạng của thai nhi và người bị hành hạ sẽ phải bị xử phạt nặng hơn hành vi phạm tội thông thường mà người phạm tội biết người mà mình hành hạ đang có thai.
Việc xác định người phụ nữ có thai hay không nhất thiết phải do giám định viên hoặc bác sĩ chuyên khoa thực hiện. Qua đó cho kết luận chính xác, đảm bảo xét xử đúng người đúng tội.
4.5. Phạm tội đối với người tàn tật
Người tàn tật là người bị một tật và bị tàn phế như cụt chân, bị bại liệt, bị mù, bị câm điếc,… Họ không có hoặc không đảm bảo khả năng, điều kiện, năng lực để chống trả. Do đó có thể bị hành hạ nhiều lần và tổn thương nghiêm trọng từ hành vi của tội phạm.
Người tàn tật không có khả năng tự vệ như người bình thường. Họ cần được bảo vệ trước các tác động vũ lực hoặc hành vi hành hạ khác.
5. Phạm tội đối với nhiều người
Hành hạ nhiều người là trường hợp đối xử tàn ác với từ 02 người lệ thuộc mình trở lên. Số lượng người bị hành hạ thể hiện mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội được thực hiện.
Có thể cả hai người trở lên cùng bị hành hạ trong một thời gian hoặc có thể không cùng một thời gian. Các hành vi này bị phát hiện và xét xử trong cùng một vụ án.
Khi đó, các người bị hại được xác định trong cùng một vụ án phạm tội đối với tội danh Tội hành hạ người khác.
6. Các khung hình phạt
Điều 140 Bộ luật hình sự quy định 2 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:
– Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với trường hợp người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình.
– Khung hình phạt phạt tù từ 01 năm đến 03 năm trong các trường hợp sau đây:
+ Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ. Việc quy định này xuất phát từ chính sách bảo vệ nhóm người yếu thế trong xã hội của Nhà nước.
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên. Căn cứ để đánh giá mức độ rối loạn tâm thần và hành vi là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
+ Đối với 02 người trở lên.
Trên đây là những phân tích về Tội hành hạ người khác. Hy vọng rằng, qua bài viết của chúng tôi, các bạn đọc đã hiểu hơn về hành vi này và giúp bạn có thêm những thông tin để có thể nắm bắt được các quy định của pháp luật một cách cụ thể hơn. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào về các vấn đề pháp lý nói chung, hãy liên hệ với chúng tôi qua Hotline 1900.6568 để được tư vấn hỗ trợ.