Tội cố ý gây thương tích có thỏa thuận dân sự được không?

toi-co-y-gay-thuong-tich-co-thoa-thuan-duoc-khong

Trong bối cảnh xã hội ngày càng phức tạp hóa như hiện nay, tội cố ý gây thương tích không chỉ đơn thuần là một hành vi vi phạm pháp luật mà còn là một vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý cũng như đời sống của nhiều người. Hành vi này không chỉ gây ra tổn hại về thể xác cho nạn nhân mà còn để lại những hậu quả đáng kể về mặt tinh thần.

Trên cơ sở đó, một vấn đề được đặt ra là liệu có thể thỏa thuận dân sự để giải quyết những vụ việc này hay không. Bài viết sau đây, Luật Dương Gia sẽ đi sâu phân tích từng khía cạnh pháp lý của việc thỏa thuận dân sự trong các vụ án về tội cố ý gây thương tích, từ đó góp phần làm rõ quan điểm và thực tiễn áp dụng luật pháp trong lĩnh vực này.

Căn cứ pháp lý:

Bộ luật Dân sự 2015;

– Bộ luật Hình sự 2015.

– Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

1. Tội cố ý gây thương tích là gì?

Thương tích được hiểu là sự tổn hại về mặt hình thức lẫn nội dung. Hình thức được thể hiện qua dấu vết để lại trên cơ thể con người, có thể đánh giá bằng mắt thường; hoặc mặt nội dung là những tổn thương tinh thần, tâm hồn bên trong hoặc những tổn thương mà không thể hiện thành dấu vết trên cơ thể con người.

Căn cứ theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 thì đây hành vi có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn thương khác làm tổn hại đến sức khoẻ của con người, thuộc nhóm các loại tội phạm xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người. Những hành vi này có thể được thực hiện với công cụ, phương tiện phạm tội hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội hoặc có thể thông qua súc vật hay cơ thể người khác…

Đồng thời khi xác định có hành vi phạm tội này đòi hỏi phải xác định hậu quả này là do chính hành vi đó gây ra hay nói cách khác là phải xác định quan hệ nhân quả giữa hành vi khách lệ tổn thương cơ thể dưới 11% vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự

2. Tội cố ý gây thương tích có thỏa thuận dân sự được hay không?

Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại:

Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1.Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

Có thể thấy, đối với tội danh cố ý gây thương tích ở Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu khởi tố của bị hại nếu thuộc một số trường hợp quy định tại Khoản 1 điều này. Tuy nhiên, việc khởi tố là bắt đầu một quy trình tố tụng lâu dài, mặc dù bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nhưng điều này có thể gây ra thiệt hại nhất định về thời gian, công sức và tiền bạc cho các bên tham gia tố tụng.

Vì thế, để nhanh chóng giải quyết, kịp thời khắc phục hậu quả cũng như giảm thiểu những tổn thất có thể xảy ra trong quá trình tố tụng đối với bị hại hay với người gây thương tích ở các vụ án nói chung hay liên quan đến tội cố ý gây thương tích nói riêng thì việc thỏa thuận giữa các bên luôn là phương án được ưu tiên lựa chọn.

Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 về Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự:

“Điều 3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

…2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ quân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.”

Khi tham gia vào quan hệ dân sự, các chủ thể có quyền thỏa thuận về mọi vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ các bên. Theo đó, thỏa thuận dân sự được hiểu là một sự đồng thuận giữa các bên liên quan, trong đó họ cam kết thực hiện hoặc không thực hiện một hành động nào đó theo các điều đã được thống nhất.

Vì vậy, khi đặt trong bối cảnh của tội cố ý gây thương tích, nếu thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã hội thì thông thường sẽ được xác lập dưới hình thức bồi thường bằng vật chất hoặc tinh thần giữa người gây thương tích đối với nạn nhân nhằm nhanh chóng giải quyết các tranh chấp đang diễn ra.

Nhìn chung, việc thỏa thuận dân sự nói chung hay thỏa thuận bồi thường trong tội cố ý gây thương tích nói riêng không chỉ là một công cụ pháp lý mà còn là một phương thức hiệu quả luôn được ưu tiên lựa chọn giải quyết trong những tình huống khó khăn.

Theo đó, nếu thuộc trường hợp khoản 1, Điều 134, tức là khoản nhẹ nhất của tội cố ý gây thương tích, nếu các bên có thể thỏa thuận về việc bồi thường dân sự, bị hại chấp nhận, tự nguyện bãi nãi, xin rút đơn yêu cầu khởi tố thì vụ án sẽ được đình chỉ giải quyết.

Trường hợp bị khởi tố từ khoản 2 trở lên, các bên vẫn có quyền thỏa thuận về việc bồi thường dân sự như bình thường. Tuy nhiên vụ án đã được khởi tố vẫn sẽ được tiếp tục giải quyết, được truy tố và xét xử theo quy định. Nếu bị hại có đơn xin bãi nại hoặc đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự đối với tội cố ý gây thương tích

Căn cứ tại Khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

“ Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Theo đó, tội cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 thuộc nhóm các tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác nhưng nó không chỉ làm tổn hại đến thể chất mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và cuộc sống của nạn nhân. Khi tội phạm thực hiện hành vi gây tổn hại đến các yếu tố nêu trên, nạn nhân hoàn toàn có cơ sở pháp lý để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Việc này dựa trên những tổn thất thực tế mà họ đã phải gánh chịu, bao gồm chi phí điều trị y tế, mất thu nhập do không thể làm việc, tổn thất về tinh thần và nhiều hệ lụy khác.

Nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi cho cả hai bên cũng như đáp ứng được yêu cầu mong muốn của mỗi chủ thể thì ngoài việc thỏa thuận, tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự cũng có quy định loại trừ một số trường hợp dù có thiệt hại xảy ra nhưng người đánh không phải bồi thường, bao gồm:

  • Do sự kiện bất khả kháng, hoặc;
  • Do lỗi hoàn toàn từ người bị đánh (bên bị thiệt hại).

Tuy nhiên, quy định trên không áp dụng đối với trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có những quy định khác liên quan đến vấn đề này.

4. Nguyên tắc bồi thường dân sự đối với tội cố ý gây thương tích

Căn cứ theo quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại thì việc các bên khi thỏa thuận về việc bồi thường dân sự nói chung hay thỏa thuận về bồi thường đối với tội cố ý gây thương tích nói riêng phải tuân theo những nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất,  Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Thứ hai, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

Mặc dù các bên được quyền tự do thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức cũng như phương thức bồi thường, nhưng để đảm bảo điều kiện, lợi ích cho các bên, nếu thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường là trường hợp có căn cứ chứng minh rằng thì tội phạm có thể được xem xét giảm mức bồi thường.

Thứ ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

Khi mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế – xã hội; sự biến động về giá cả; sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại; sự thay đổi về khả năng kinh tế của người có trách nhiệm bồi thường mà mức bồi thường không còn phù hợp với sự thay đổi đó thì  bên gây thiệt hại yêu cầu thay đổi mức bồi thường

Thứ tư, khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

Thứ năm, bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.

Đây là trường hợp khi bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm biết, nhìn thấy trước việc nếu không áp dụng biện pháp ngăn chặn thì thiệt hại sẽ xảy ra và có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp ngăn chặn, hạn chế được thiệt hại xảy ra nhưng đã để mặc thiệt hại xảy ra thì sẽ không được bồi thường thiệt hại

5. Thỏa thuận về chi phí bồi thường

Căn cứ vào Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 về việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm có quy định thì khi thiệt hại về sức khỏe, nạn nhân thường sẽ được bồi thường những chi phí liên quan đến:

  • Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
  • Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
  • Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
  • Thiệt hại khác do luật quy định.

Ngoài ra, người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm còn phải bồi thường thêm một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.

Khác với thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần không có tiêu chí chung để xác định cho mọi cá nhân bởi điều kiện, hoàn cảnh của từng cá nhân là khác nhau. Theo đó, mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Trên thực tế, các mức phí này thường rất khó để xác định cụ thể, vì vậy sự thỏa thuận giữa các bên là điều mấu chốt để tìm nhanh chóng tìm được sự đồng thuận cũng như giải quyết triệt để những vấn đề còn vướng mắc.

Từ những phân tích trên, có thể thấy đối với tội danh cố ý gây thương tích, các bên vẫn có thể thỏa thuận theo quy định của pháp luật dân sự để đạt được kết quả như ý muốn. Tuy nhiên, những thỏa thuận này phải có căn cứ, đồng thời được phát sinh và ràng buộc bởi những quy định pháp lý cụ thể.

Trên đây là toàn bộ những thông tin liên quan việc thỏa thuận dân sự đối với tội cố ý gây thương tích. Trong trường bạn cần tư vấn thêm vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số hotline 19006568 để được hỗ trợ.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon