Trong các văn bản pháp luật hiện hành, pháp nhân là thuật ngữ xuất hiện khá thường xuyên và phổ biến trong quan hệ xã hội. Để có thể tham gia vào các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng, pháp nhân phải mang trong mình năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Vậy năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là gì? Trách nhiệm dân sự của pháp nhân như thế nào? Hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu nội dung dưới đây.
Căn cứ pháp lý:
1. Khái quát về pháp nhân
Pháp nhân là một tổ chức được thành lập hợp pháp hoặc được pháp luật thừa nhận khi đáp ứng được các điều kiện mà pháp luật quy định, pháp nhân là một loại chủ thể thường xuyên và cơ bản của tư pháp quốc tế, các pháp nhân tham gia quan hệ tư pháp quốc tế có thể là pháp nhân Việt Nam và cả pháp nhân nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam và kể cả trên thế giới cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất định nghĩa về pháp nhân. Theo Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 quy định một tổ chức được công nhận là có tư cách pháp nhân khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định quy định pháp nhân như sau:
Thứ nhất, được thành lập một cách hợp pháp. Pháp nhân có thể được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, tổ chức hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và có mục đích, nhiệm vụ hợp pháp. Do đó, tổ chức thành lập không hợp pháp thì không được coi là pháp nhân, tổ chức đó được công nhận là có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận thành lập. Ngoài ra, không phải doanh nghiệp nào cũng là pháp nhân ví dụ như doanh nghiệp tư nhân vì nó chưa hội đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Thứ hai, có cơ quan điều hành, cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Pháp nhân phải có điều lệ hoạt động rõ ràng. Điều lệ của pháp nhân do các sáng lập viên xây dựng, nếu pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì điều lệ do cơ quan nhà nước đã thành lập chuẩn y. Pháp nhân phải có cơ quan điều hành bao gồm các bộ phận, phòng ban được phân chia cụ thể, phân công chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ phận, phòng ban được quy định rõ ràng trong điều lệ hoặc trong quyết định thành lập.
Thứ ba, Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và từ chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Pháp nhân phải sở hữu một lượng tài sản nhất định để sử dụng trong các giao dịhc và hoàn toàn chịu trách nhiệm với các tài sản đó. Pháp nhân phải có toàn quyền sử dụng tài sản này mà không chịu sự chi phối hay kiểm soát bởi bất kỳ ai.Tài sản đó phải hoàn toàn tách biệt với tài sản của các cá nhân là thành viên nên các thành viên chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp vào tổ chức. Đây là sự khác biệt rất lớn để phân biệt giữa pháp nhân với cá nhân.
Thứ tư, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp nhân là một chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự, do . Xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự hay các quan hệ khác khi pháp nhân nhân danh chính mình mà không phải nhận danh bất kỳ 1 cá nhân hay pháp nhân nào khác. Pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định nhi hợp với điều lệ của pháp nhân. Đồng thời, trong quan hệ tố tụng, pháp nhân có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn trước Toà án.
Căn cứ vào mục tiêu hoạt động, có thể chia pháp nhân thành hai loại:
– Pháp nhân thương mại: là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
– Pháp nhân phi thương mại: là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận, nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên.
Trong tham gia quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, pháp nhân phi thương mại chiếm đa số và có nhiều vấn đề pháp lý phát sinh từ chủ thể này, khá phức tạp và nhiều khó khăn, vướng mắc.
2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
Tại Bộ luật Dân sự không đặt ra quy định về năng lực hành vi dân sự của pháp nhân nên có thể hiểu pháp nhân không có năng lực hành vi dân sự. Thay vào đó, theo quy định hiện hành tại Điều 86 Bộ luật Dân sự 2015 thì Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được quy định như sau:
– Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
– Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.
– Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là yếu tố cấu thành năng lực chủ thể của pháp nhân bên cạnh yếu tố năng lực hành vi dân sự của pháp nhân. Giống với quy định về cá nhân, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân cũng mang khả năng của pháp nhân và có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Những quyền và nghĩa vụ phụ thuộc vào năng lực pháp luật của pháp nhân đều đươc pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền và nghĩa vụ này tồn tại dưới dạng “khả năng”, nếu pháp nhân muốn hiện thực hoá những quyền và nghĩa vụ đang ở dưới dạng khả năng thành hiện thực thì phải tiến hành thông qua hành vi của pháp nhân dựa trên thực tế.
Năng lực pháp luật của pháp nhân sẽ không bị hạn chế bởi bất kì điều gì, nếu có bị hạn chế thì phải được quy định cụ thể tại Bộ luật Dân sự và các luật liên quan khác.
Đồng thời, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân sẽ chấm dứt kể từ thời điểm chất dứt pháp nhân, trong đó:
– Pháp nhân được thành lập theo nhu cầu của cá nhân, pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và đăng ký pháp nhân thì bao gồm các hoạt động: Đăng kí thành lập, thay đổi và đăng ký khác. Việc đăng ký này phải được công bố công khai.
– Pháp nhân chấm dứt tồn tại trong các trường hợp: Hợp nhất, sáp nhập, chia, chuyển đổi hình thức, giải thể, bị tuyên bố phá sản hoặc bị xoá tên trong sổ đăng ký hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự trong phạm vi nào?
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất tinh thần, vật chất cho người bị hại. Trách nhiệm dân sự có một số đặc điểm sau:
– Là hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm, chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó.
– Là một hình thức cưỡng chế của nhà nước và do cơ quan có thẩm quyền của nhà nước áp dụng.
– Luôn mang đến một hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm.
Ngoài những đặc điểm chung của trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm dân sự còn mang những đặc điểm riêng như sau:
– Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự là hành vi vi phạm luật dân sự hoặc vi phạm hợp đồng (đó là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự).
– Trách nhiệm dân sự mang tính tài sản. Đây chính là đặc điểm cơ bản của trách nhiệm dân sự. Do đó, trách nhiệm dân sự của người vi phạm bao giờ cũng là sự bù đắp cho bên vi phạm những lợi ích vật chất nhất định.
– Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự có thể là người vi phạm nhưng cũng có thể là người khác, như là người đại diện theo pháp luật cho người chưa thành niên, pháp nhân, cơ quan, tổ chức.
– Hậu quả bất lợi mà người vi phạm phải chịu là việc bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ hoặc bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền và khắc phục vật chất cho bên vi phạm.
Theo Khoản 1 Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Trong quá trình hoạt động, pháp nhân tham gia các quan hệ xã hội với tư cách chủ thể và pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Ngoài ra, pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm nếu người đại diện của pháp nhân thực hiện đúng phạm vi, thẩm quyền đại diện của mình. Trong trường hợp, nếu người đại diện của pháp nhân thực hiện việc đại diện sai, vướt quá thẩm quyền thì pháp nhân không phải chịu trách nhiệm mà trách nhiệm thuộc về các nhân có hành vi vi phạm.
Tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rằng pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho người của pháp nhân và người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân. Một trong những đặc điểm cơ bản của pháp nhân là sự độc lập về tài sản so với các chủ thể khác và với chính các thành viên của pháp nhân. Do đó, trách nhiệm dân sự của pháp.nhân được thực hiện trong phạm vi tài sản của chính pháp nhân. Pháp nhân là một chủ thể độc lập khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, nhân danh mình và chịu trách nhiệm cho hành vi của mình.
Cá nhân cũng tương tự pháp nhân, khi có đủ năng lực chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật thì cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về những hậu quả do hành vi của mình gây ra. Nếu cá nhân không nhân danh pháp nhân tham gia vào các giao dịch dân sự thì nghĩa vụ phát sịnh từ các giao dịch này sẽ do cá nhân chịu trách nhiệm.
Trên đây là nội dung liên quan đến Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân. Trường hợp có thắc mắc, vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số hotline 1900 6568 để được hỗ trợ và tư vấn.