Khó khăn, vướng mắc khi biên tài sản của người phải thi hành án do người thứ ba giữ và kiến nghị hoàn thiện

kho-khan-vuong-mac-khi-bien-tai-san-cua-nguoi-phai-thi-hanh-an-do-nguoi-thu-ba-giu-va-kien-nghi-hoan-thien

Việc kê biên tài sản trong thi hành án dân sự thông thường đã có những khó khăn, vướng mắc nhất định. Kê biên tài sản do người thứ ba giữ còn khó khăn hơn rất nhiều. Không chỉ có thêm một bên tham gia vào mà quy định pháp luật hiện hành cũng có những vấn đề cần phải làm rõ và tiếp tục hoàn thiện. Nội dung bài viết sẽ phân tích những khó khăn, vướng mắc khi biên tài sản của người phải thi hành án do người thứ ba giữ và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật.

1. Khó khăn, vướng mắc khi biên tài sản của người phải thi hành án do người thứ ba giữ

1.1. Về điều kiện áp dụng

Theo quy định của pháp luật về THADS thì tài sản của người phải thi hành án (thuộc loại tài sản được kê biên xử lý) đang do người thứ ba nắm giữ thì Chấp hành viên căn cứ khoản 3 Điều 71 và Điều 91 Luật THADS năm 2014 và Điều 23 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (nay là Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020) để thực hiện các bước như đã nêu trên. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể điều kiện, thời điểm để áp dụng biện pháp này như: Đối với tài sản khi có căn cứ xác định người thứ ba đang nắm giữ tài sản của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải thực hiện ngay việc yêu cầu giao nộp tài sản đó cho cơ quan THADS, kể cả việc người phải thi hành án đang có điều kiện thi hành án khác. Còn đối với tài sản phải đăng ký, quyền sở hữu, sử dụng thì chỉ xử lý khi người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc không đủ để thi hành án.

Do đó, có quan điểm cho rằng Chấp hành viên chỉ kê biên xử lý tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ trong trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.

Ví dụ 1: Bản án thứ nhất tuyên bà A phải thi hành cho ông B số tiền 800.000.000 đồng và lãi chậm thi hành án do cơ quan thi hành án Quận N, tỉnh M tổ chức thi hành. Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án của A thì được biết A không có điều kiện để thi hành án. Ông B cung cấp bà A đang được thi hành bản án đối với ông C một chiếc ô tô trị giá 500.000.000 đồng nhưng bà A chưa làm đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp này, do bà A không còn tài sản nào để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án nên Chấp hành viên phải tiến hành xác minh thông tin từ ông B cung cấp, làm việc với ông C để yêu cầu ông C thực hiện nghĩa vụ thi hành cho bà A chiếc ô tô trị giá 500.000.000 đồng, trường hợp ông C không tự nguyện thì Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án của ông C để thi hành cho bà A.

Bên cạnh đó, có quan điểm cho rằng khi phát hiện người thứ ba đang nắm giữ tài sản của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải áp dụng ngay các biện pháp yêu cầu người thứ ba giao nộp, kê biên xử lý theo quy định. Nhưng việc áp dụng này có thể dẫn đến khiếu nại, tố cáo của người thứ ba vì cho rằng người phải thi hành án đang có điều kiện thi hành nhưng cơ quan thi hành án lại xử lý tài sản của người thứ ba là chưa phù hợp với thực tế, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Ví dụ 2: Cũng như ví dụ nêu trên, nhưng trong trường hợp này bà A có điều kiện thi hành án là đất và nhà ở (nơi bà A đang cư trú). Tuy nhiên, do bà A đang được thi hành là tiền từ bản án khác nên phải được ưu tiên xử lý để bảo đảm nhà ở duy nhất là tài sản xử lý cuối cùng. Tuy nhiên, trường hợp này bản án giữa bà A và ông C chưa được cơ quan THADS thụ lý giải quyết nên ông C chống đối không thực hiện các yêu cầu của cơ quan THADS vì ông cho rằng bà A còn có tài sản là nhà đất đang ở nhưng cơ quan THADS không xử lý.

Đây cũng là một trong những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng quy định pháp luật của Chấp hành viên, cần có quy định cụ thể về điều kiện áp dụng quy định xử lý tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ để có cơ chế bảo vệ Chấp hành viên khi thực hiện nhiệm vụ.

1.2. Đối với tài sản của người phải thi hành

Trên thực tế, việc tổ chức thi hành án trong trường hợp xác định tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ chủ yếu được xác định bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Ví dụ 1: Cơ quan thi hành án tỉnh Đ đang tổ chức thi hành Bản án số 156/2015/DSPT có nội dung:

– Buộc bà H phải trả cho bà T số tiền 2 tỷ đồng; bà có nghĩa vụ giao trả cho bà H 976 m2 đất và toàn bộ công trình xây dựng gắn liền với đất thuộc thửa số 123 tờ bản đồ số 28 tại tỉnh Đ;

– Bà H chuyển giao cho bà M toàn bộ 3043 m2 đất thửa 123 tờ bản đồ số 28 tại tỉnh Đ cùng toàn bộ tài sản gắn liền với đất (trong đó bao gồm cả diện tích đất 976 m2 bà T phải giao cho bà H).

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà M làm đơn yêu cầu thi hành án phần buộc bà H chuyển giao toàn bộ 3043 m2. Cơ quan THADS tỉnh Đ ban hành quyết định thi hành án và tổ chức thi hành. Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi hành án được biết trong tổng diện tích 3043 m2 thì bà T vẫn đang quản lý sử dụng diện tích đất 976 m2, quyền sử dụng đất này được bản án tuyên giao cho bà H tuy nhiên bà H chưa làm đơn yêu cầu thi hành án.

Cơ quan thi hành án đã tổ chức họp liên ngành và thống nhất biện pháp áp dụng Điều 91 Luật THADS năm 2014 và khoản 3 Điều 23 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để buộc bà T phải giao quyền sử dụng đất này cho bà M vì bà M là người được thi hành án toàn bộ diện tích 3.043m2 trong đó có cả diện tích đất của bà T phải giao cho bà H.

Tuy nhiên, vụ việc vẫn có quan điểm khác cho rằng: Bản án số 156/2015/DSPT có ba nội dung độc lập, quyền và nghĩa vụ của các đương sự được tuyên cụ thể, trong đó nghĩa vụ phải thi hành án của bà H đối với bà T số tiền 2 tỷ đồng; bà T có nghĩa vụ giao trả cho bà H 976 m2 đất và toàn bộ công trình xây dựng gắn liền với đất là nghĩa vụ độc lập nên việc tổ chức thi hành án cũng phải thực hiện độc lập và phải trên cơ sở đơn yêu cầu thi hành án của đương sự. Trong trường hợp bà M làm đơn yêu cầu thi hành án buộc bà H giao đất nhưng trong tổng số diện tích đất phải giao cho bà M có diện tích đất 976 tuyên bà T phải giao cho bà H (nội dung này H chưa có đơn yêu cầu thi hành án), cơ quan thi hành án chưa tổ chức thi hành, bà T cũng không phải là người thứ ba đang nắm giữ tài sản của người phải thi hành án nên không có căn cứ để buộc bà T giao đất cho bà M. Cơ quan THADS phải tổ chức thi hành buộc bà T giao đất cho bà H trước, sau đó mới cưỡng chế buộc bà H giao đất cho bà M.

Vậy, trong trường hợp này bà T có phải là người thứ ba đang nắm giữ tài sản của người phải thi hành án hay không và cơ quan THADS trong trường hợp này có được áp dụng quy định tại Điều 91 Luật THADS để cưỡng chế buộc bà T thi hành án cho bà M vì theo bản án đã xác định diện tích đất của bà T là tài sản thuộc quyền sử dụng của bà H.

Ví dụ 2:

Bản án thứ nhất có nội dung: Ông A phải thi hành án cho ông B số tiền 2 tỷ đồng và lãi chậm thi hành án. Bản án có hiệu lực pháp luật, ông B làm đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án tổ chức thi hành nhưng kết quả xác minh ông A không có điều kiện thi hành án.

Bản án thứ hai có nội dung: Buộc ông C phải giao trả cho ông A quyền sử dụng đất 200m2 tại tỉnh N hiện ông C đang đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông C và ông A có trách nhiệm liên hệ cơ quan có thẩm quyền để thực hiện thủ tục đăng ký biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng theo quy định của Luật Đất đai. Bản án có hiệu lực pháp luật nhưng ông A không làm đơn yêu cầu thi hành án.

Như vậy theo quy định của pháp luật về THADS thì ông A có điều kiện thi hành án vì ông đang có quyền sử dụng đất 200m2 tại tỉnh N theo nội dung bản án thứ hai. Theo quy định tại Điều 91 Luật THADS năm 2014, khoản 3 Điều 23 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì Chấp hành viên, cơ quan THADS phải yêu cầu ông C giao diện tích đất 200m2 của ông A để cơ quan thi hành án tổ chức thi hành, trường hợp nếu ông C không thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án thì Chấp hành viên thực hiện việc cưỡng chế cần thiết để thi hành án. Và việc thực hiện biện pháp cần thiết trong trường hợp này là kê biên, xử lý tài sản đó của ông A. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án phát sinh khó khăn, vướng mắc như sau:

Thứ nhất, hiện tại diện tích đất 200m2 ông C vẫn đang đứng tên chứ không phải ông A. Vậy trình tự, thủ tục để Chấp hành viên thực hiện xử lý tài sản trong trường hợp này là như thế nào, kê biên luôn tài sản của ông C để thi hành án hay yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục đăng ký biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ông C sang ông A.

Thứ hai, nếu cơ quan thi hành án kê biên xử lý luôn tài sản đứng tên ông C để thi hành án cho bản án thứ nhất thì căn cứ bản án, quyết định nào để tổ chức thi hành (bản án thứ nhất, hay bản án thứ hai); mặt khác, nếu tài sản bán đấu giá thành thì thủ tục hoàn thiện hồ sơ, đăng ký biến động cho người mua trúng đấu giá sẽ thực hiện như thế nào khi tên chủ sử dụng tài sản không phải là người phải thi hành án.

Thứ ba, nếu cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế cần thiết là yêu cầu ông C phải liên hệ cơ quan có thẩm quyền sang tên giấy chứng nhận cho ông A, nhưng ông C không thực hiện. Vậy cơ quan thi hành án căn cứ vào quy định nào để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục đăng ký biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ông C sang ông A (khi ông A không có đơn yêu cầu thi hành án).

Trong trường hợp này, cơ quan THADS lúng túng trong việc áp dụng các quy định của pháp luật để tổ chức thi hành bản án có hiệu quả. Thực tế cho thấy rằng: Rõ ràng ông A có điều kiện thi hành án, nhưng do ông không phối hợp để giải quyết mà pháp luật thì chưa quy định nên nghĩa vụ thi hành án của ông A với ông B không thể giải quyết dứt điểm.

Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật về THADS còn có nhiều quy định gây khó khăn cho chính cơ quan thi hành án trong quá trình áp dụng để thực hiện nhiệm vụ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, đơn vị khi tham gia vào hoạt động THADS và còn dẫn đến hậu quả là vẫn còn nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau của các cá nhân, cơ quan trực tiếp áp dụng các quy định đó. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, trong quá trình hoàn thiện thể chế cũng chưa dự liệu được xu thế phát triển của xã hội và việc thực tế áp dụng phát sinh khó khăn, vướng mắc là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật là điều cần thiết và phù hợp. Nhất là việc tổng hợp các khó khăn, vướng mắc để định hướng sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về THADS là vấn đề quan trọng hiện nay.

2. Kiến nghị đề xuất

Từ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn áp dụng quy định tại Điều 91 Luật THADS năm 2014 và Điều 23 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ (nay là Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020) như đã phân tích ở trên để quy định này được thực hiện hiệu quả trên thực tế, tác giả bài viết xin nêu ra một số nội dung để đề xuất trong lộ trình sửa đổi, bổ sung Luật THADS như sau:

Xem xét trường hợp tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ hoặc đã được xác định bằng bản án, quyết định khác đã có hiệu lực pháp luật cần có quy định cụ thể hơn như sau:

(1) Thời điểm áp dụng biện pháp xử lý tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ (là khi có căn cứ xác định người thứ ba đang nắm giữ hay trường hợp người phải thi hành án không còn điều kiện thi hành án nào khác).

(2) Trách nhiệm của người thứ ba trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật (kể cả Cơ quan Nhà nước).

(3) Trình tự, thủ tục cưỡng chế trong trường hợp xử lý tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ, đặc biệt các quy định như:

– Đối với tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ (không thuộc trường hợp xác định bằng bản án) thì cơ quan thi hành án ban hành quyết định thu giữ tài sản đó, người thứ ba có trách nhiệm giao nộp cho cơ quan THADS, nếu người thứ ba không thực hiện dẫn đến thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

– Đối với tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm giữ, kể cả trường hợp tài sản được xác định bằng bản án, quyết định khác. Cơ quan THADS yêu cầu người thứ ba giao nộp tài sản đó để cơ quan thi hành án tổ chức thi hành; trường hợp người thứ ba không thực hiện thì cơ quan thi hành án lựa chọn biện pháp cưỡng chế phù hợp để xử lý tài sản đó thi hành án. Đồng thời, đối với tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất thì cần có điều luật quy định riêng để bảo đảm trong trường hợp cơ quan thi hành án xử lý, bán đấu giá thành thì quyền và lợi ích hợp pháp của người mua trúng đấu giá được bảo vệ (đặc biệt là việc đăng ký biến động tài sản trên giấy chứng nhận từ người thứ ba sang người mua trúng đấu giá)./.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon