Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh

quan-he-giua-ben-bao-lanh-va-ben-nhan-bao-lanh

Trong quan hệ bảo đảm của các giao dịch dân sự thì các bên chủ thể có mối liên hệ với nhau. Như các bạn đã biết bão lãnh là một giao dịch dân sự phổ biến, trong đó đối với bảo lãnh thì bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nào đó và bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh phải tuân thủ quy định của pháp luật khi thực hiện bảo lãnh. Để hiểu thêm về các quy định về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh của Bộ luật Dân sự 2015 hãy theo dõi bài viết dưới đây của Luật Dương Gia chúng tôi.

Căn cứ pháp lý

1. Bão lãnh là gì?

Tại khoản 1 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”

Như vậy căn cứ vào quy định nêu trên để tạo điều kiện cho các bên có thể giao kết hợp đồng và xác lập quan hệ nghĩa vụ mà vẫn bảo đảm được quyền lợi cho người có quyền ngay cả trong những trường hợp người có nghĩa vụ không có tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ đó, pháp luật quy định người khác có thể đứng ra cam kết trước người có quyền về việc thay người có nghĩa vụ để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ.

2. Chủ thể của bảo lãnh

Thứ nhất, bên bảo lãnh:

Bên bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

Trong trường hợp nếu là cá nhân, bên bảo lãnh có thể bao gồm nhiều cá nhân. Khi nhiều người cùng thực hiện bảo lãnh một nghĩa vụ thì các chủ thể thực hiện bảo lãnh sẽ phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập. Bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên thỏa thuận mỗi người bảo lãnh chỉ phải thực hiện một phần nghĩa vụ.

Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho chủ thể là bên được bảo lãnh thì chủ thể đó sẽ có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình. Khi một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới lại được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác sẽ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ.

Thứ hai, bên nhận bảo lãnh:

Bên nhận bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

Trong trường hợp nếu là cá nhân, chủ thể là bên nhận bảo lãnh có thể bao gồm nhiều cá nhân. Chủ thể là bên nhận bảo lãnh chính là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ với chủ thể là bên được bão lãnh.

Đối với trường hợp nếu chủ thể là bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì chủ thể là bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với chủ thể là bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.

Thứ ba, bên được bảo lãnh:

Bên được bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

Nếu là cá nhân, chủ thể là bên được bảo lãnh sẽ có thể bao gồm nhiều cá nhân. Chủ thể là bên được bảo lãnh là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ với chủ thể là bên được bão lãnh. Bên được bảo lãnh sẽ có nghĩa vụ hoàn trả đối với bên bảo lãnh.

3. Đối tượng và phạm vi bảo lãnh

3.1. Đối tượng của bảo lãnh

Đối tượng của bảo lãnh là các cam kết của người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh. Bên cạnh đó để thực hiện được cam kết đó thì người bảo lãnh phải có tài sản hoặc công việc phù hợp để đáp lại lợi ích của bên nhận bảo lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ để đạt được lợi ích mà các bên chủ thể trong một quan hệ nghĩa vụ hướng tới là lợi ích vật chất. Vì vậy người bảo lãnh phải bằng một tài sản hoặc bằng việc thực hiện một công việc thay cho người được bảo lãnh mới đảm bảo được quyền lợi cho người nhận bảo lãnh. Người bảo lãnh phải là người có khả năng thực hiện công việc đó. Người bảo lãnh phải lấy tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho người nhận bảo lãnh xử lí.

3.2. Phạm vi của Bảo lãnh

Phạm vi bảo lãnh được xác định là giới hạn về nghĩa vụ ràng buộc giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh trên cơ sở cam kết của bên bảo lãnh và sự chấp nhận cam kết của bên nhận bảo lãnh cho bên được bảo lãnh.

Căn cứ vào Điều 336 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về phạm vi bảo lãnh như sau:

Một là, Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.

Hai là, Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Ba là, Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Bốn là, Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

4. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ và thời điểm kết thúc nghĩa vụ bảo lãnh

4.1. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

Theo Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 quy định bên bảo lãnh: “…sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.

Theo đó, thời điểm mà bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được xác định theo hai trường hợp sau:

Thứ nhất, Khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh đến thời hạn thực hiện. Xác định việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh bắt đầu từ thời điểm này trong trường hợp các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thỏa thuận khác về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

Thứ hai, Khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.

4.2. Thời điểm chấm dứt bảo lãnh

Căn cứ vào điều 343 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời điểm chấm dứt bảo lãnh như sau:

Bảo lãnh chấm dứt trong trường hợp sau đây:

– Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt.

– Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.

– Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

– Theo thỏa thuận của các bên

5. Quy định về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh

Tại Điều 339 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh như sau:

1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.

2. Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn.

3. Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.

Theo nguyên tắc về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bên nhận bảo đảm chỉ được yêu cầu bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn. Vậy nên, khi chưa đến hạn bảo lãnh thì bên bảo lãnh không có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ với mình. Ngược lại, nếu đến thời hạn bảo lãnh mà bên bão lãnh vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ của mình thì người được bảo lãnh có quyền yêu cầu người bão lãnh thực hiện các nghĩa vụ như đã cam kết.

Như vậy, thời điểm mà bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được xác định là khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh đến hạn. Hợp đồng bảo lãnh phát sinh đồng thời và tồn tại cùng với hợp đồng chính, vì vậy, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì khi đến thời hạn này, bên nhận bảo lãnh được quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ với mình. Tuy nhiên, điều kiện là bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc không thực hiện nghĩa vụ. Nếu đến thời hạn, mà bên được bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ thì bên được bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với mình. Bên cạnh đó, nếu các bên thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ bảo lãnh nghĩa vụ nếu bên được bảo lãnh không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ, thì dù thời hạn bảo lãnh đã đến và bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ dù đủ điều kiện để thực hiện, thì bên nhận bảo lãnh cũng không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ.

Trên đây là bài phân tích mới nhất của Luật Dương Gia về “Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh” theo Bộ luật dân sự. Nếu còn bất cứ thắc mắc nào liên quan đến trường hợp này hoặc các vấn đề pháp luật về bảo lãnh khác, vui lòng liên hệ: 1900.6568 để được tư vấn – hỗ trợ!

Bài viết liên quan

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon