Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng và những vấn đề có liên quan?

thoa-thuan-xac-lap-che-do-tai-san-cua-vo-chong-va-nhung-van-de-co-lien-quan

Khi bước vào quan hệ hôn nhân, xây dựng đời sống gia đình, vợ chồng cần phải có tài sản để duy trì cuộc sống, đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho gia đình. Việc xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vợ chồng đối với tài sản có trước và sau khi kết hôn không chỉ có ý nghĩa đối với vợ chồng mà còn có ý nghĩa đối với gia đình và những người khác có liên quan. Vì vậy, việc xác định chế độ tài sản trong hôn nhân là cần thiết cho vợ chồng, cho gia đình và xã hội. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng và những vấn đề có liên quan, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

Căn cứ pháp lý:

– Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

– Bộ luật Dân sự năm 2015;

– Nghị định 126/2014/NĐ-CP.

1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là gì?

Hiện nay chưa có quy định cụ thể về khái niệm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Song, dựa trên quy định về chế độ tài sản của vợ chồng, ta có thể suy ra khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận như sau:

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (hay còn gọi là chế độ tài sản ước định) là tập hợp các quy tắc do chính vợ chồng xây dựng nên một cách hệ thống trên cơ sở sự cho phép của pháp luật để thay thế cho chế độ tài sản theo luật định nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng.

2. Về hình thức của thỏa thuận

Theo quy định tại Điều 47 Luật HN & GĐ năm 2014, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản vợ chồng phải tuân thủ về hình thức như sau:

“Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.”

Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng, quyền lợi cũng như trách nhiệm của vợ, chồng về vấn đề tài sản, do đó thỏa thuận này phải được vợ, chồng lập thành văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực.

Về thời điểm xác lập: chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận và thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn.

Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký kết hôn và tồn tại trong thời kỳ hôn nhân. Trong trường hợp không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn thì chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận sẽ bị vô hiệu, không có giá trị áp dụng.

3. Nội dung cơ bản của thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng

3.1. Về xác định tài sản chung, tài sản riêng

Về nội dung cơ bản của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, Điều 48 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định các nội dung sau:

“1. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:

a) Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;

b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;

c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;

d) Nội dung khác có liên quan.

Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định.”

Theo đó, những điều kiện về mặt nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản bao gồm:

Vợ chồng thỏa thuận tài sản của vợ chồng gồm tài sản chung, tài sản riêng. Việc xác định tài sản chung, tài sản riêng thì vợ, chồng có thể thỏa thuận với nhau; pháp luật không đưa ra quy định cụ thể. Tuy nhiên, vợ chồng có thể thỏa thuận, tài sản chung bao gồm tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân, tài sản riêng là tài sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.

Hoặc vợ chồng có thể thỏa thuận vợ chồng không có tài sản riêng, tất cả tài sản có được trước khi kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng.

Hoặc vợ chồng có thể thỏa thuận vợ chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản có trước khi kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân đều được xác định là tài sản riêng của người có được tài sản đó.

Ngoài ra, tài sản của vợ chồng có thể được xác định theo các thỏa thuận khác của vợ chồng. Theo đó, vợ chồng có thể đưa ra căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản sao cho phù hợp với điều kiện và nguyện vọng của vợ, chồng miễn sao không trái pháp luật, đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình và không ảnh hưởng đến quyền lợi bên thứ ba.

3.2. Về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản

“1. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:

b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;”.

Theo đó, vợ, chồng có quyền thỏa thuận về việc quản lý, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung, tài sản riêng; nghĩa vụ riêng, nghĩa vụ chung của vợ, chồng mà hai bên phải gánh chịu và những nhu cầu thiết yếu của gia đình được bảo đảm bằng tài sản chung hay tài sản riêng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với giao dịch với bên thứ ba. Vợ chồng được tự do thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng theo ý chí của hai bên, theo nhu cầu, hoàn cảnh kinh tế của gia đình…

Thỏa thuận về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản phải đảm bảo quyền lợi của bên thứ ba.

Khoản 2 Điều 15 Nghị định 126/2014/NĐ-CP có quy định

“2. Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phải phù hợp với quy định tại các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu vi phạm, người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận vô hiệu theo quy định tại Điều 50 của Luật Hôn nhân và gia đình.”

Điều 16 Nghị định 126/2014/NĐ-CP cũng quy định:

“Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thử ba biết về những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo quy định của Bộ luật Dân sự.”

Như vậy, chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận sẽ do hai chồng tự thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản chung, tài sản riêng. Việc thỏa thuận này phải đảm bảo quyền lợi của gia đình và quyền lợi của bên thứ ba khi thực hiện giao dịch.

4. Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng

Điều 49 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận có thể được sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với tình hình thực tế của vợ chồng:

“1. Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản.

2. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản theo thỏa thuận được áp dụng theo quy định tại Điều 47 của Luật này”.

Điều 17 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn việc sửa đổi, bổ sung văn bản thỏa thuận như sau:

“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định.

2. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật.”

Thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng được lập trước khi kết hôn, có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký kết hôn. Tuy nhiên xuất phát từ nhu cầu cuộc sống của vợ chồng, pháp luật cho phép vợ, chồng sửa đổi, bổ sao cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình.

Vợ, chồng có quyền sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định nhằm đảm bảo quyền lợi liên quan đến tài sản vợ, chồng.

Điều 18 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định về hậu quả của việc sửa đổi, bổ sung, nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận như sau:

“1. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực từ ngày được công chứng hoặc chứng thực. Vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan theo quy định tại Điều 16 của Nghị định này.

2. Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm việc sửa đổi, bổ sung chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”

Về hình thức, việc sửa đổi, bổ sung thỏa thuận phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực.

Thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung chế độ tài sản của vợ chồng là kể từ ngày được công chứng hoặc chứng thực theo quy định pháp luật.

Việc sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản vợ chồng không làm chấm dứt thỏa thuận chế độ tài sản mà chỉ làm thay đổi một số nội dung đã thỏa thuận trước đó. Trong trường hợp vợ chồng xác lập giao dịch với bên thứ ba thì khi sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản vợ chồng thì vợ, chồng vẫn phải đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cung cấp cho bên thứ ba biết những thông tin liên quan.

Nếu chồng vi phạm nghĩa vụ này thì quyền lợi của bên thứ ba vẫn được pháp luật bảo vệ theo quy định của Bộ luật dân sự. Khi thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng được sửa đổi, bổ sung thì các quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm sửa đổi, bổ sung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

5. Các trường hợp thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu

Khoản 1 điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về các trường hợp vô hiệu của chế độ tài sản theo thỏa thận của vợ chồng:

– Vi phạm một trong các quy định tại Điều 29, 30, 31, 32 Luật HN & GĐ năm 2014 lần lượt về nguyên tắc chung của chế độ tài sản vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng; giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng.

– Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.

– Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự 2015 và các luật khác có liên quan.

Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như sau:

“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trang hợp luật có quy định.”

Căn cứ vào đó, thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị coi là vô hiệu khi không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.

Như vậy, bài viết trên đây đã phân tích rõ về thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng và những vấn đề có liên quan. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon