Quyền khác đối với tài sản – góc độ đối tượng của biện pháp bảo đảm

quyen-khac-doi-voi-tai-san-goc-do-doi-tuong-cua-bien-phap-bao-dam

Việc ghi nhận các quyền khác đối với tài sản bên cạnh quyền sở hữu là một bước tiến đáng ghi nhận về khoa học pháp lý và kỹ thuật xây dựng Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, các quyền này được nghiên cứu và tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ nghiên cứu tiếp cận các quyền khác đối với tài sản dưới góc độ đối tượng của biện pháp bảo đảm.

Cơ sở pháp lý:

1. Quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về các quyền khác đối với tài sản

1.1 Khái niệm và đặc điểm quyền khác đối với tài sản

1.1.1 Khái niệm

Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác (Khoản 1 Điều 159 BLDS năm 2015).

Quyền khác đối với tài sản được hình thành trên cơ sở quyền sở hữu tài sản của chủ thể khác – là quyền gần nhất đối với tài sản – quyền “trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản”; do đó trong thời hạn có hiệu lực của quyền thì quyền khác đối với tài sản còn mạnh hơn cả quyền của chủ sở hữu đối với tài sản theo nguyên lý “sức mạnh luôn thuộc về người nắm giữ tài sản trong tay”.

Quyền khác đối với tài sản bao gồm các quyền: Quyền đối với bất động sản liền kề; Quyền hưởng dụng; Quyền bề mặt.

1.1.2 Đặc điểm

Quyền khác đối với tài sản có một số đặc điểm như sau:

Thứ nhất, chủ thể quyền: Không phải là chủ sở hữu đối với tài sản

Thứ hai, tính chất quyền: Chủ thể có quyền nắm giữ và chi phối trực tiếp đối với tài sản

Thứ ba, thời hạn của quyền: Hiệu lực của quyền khác đối với tài sản không vĩnh viễn mà do thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc do pháp luật quy định

Thứ, mối quan hệ với quyền sở hữu: Quyền sở hữu là tiền đề cho sự hình thành của quyền khác đối với tài sản nhưng trong thời hạn của quyền thì quyền khác đối với tài sản có tính đối kháng (có thứ tự ưu tiên hơn) so với quyền sở hữu. Tuy nhiên, chỉ có chủ sở hữu phải chịu rủi ro đối với tài sản trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu.

1.2 Các quyền khác đối với tài sản

1.2.1 Quyền đối với bất động sản liền kề

Quyền đối với bất động sản liền kề là quyền được thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng quyền) nhằm phục vụ cho việc khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của người khác (gọi là bất động sản hưởng quyền).

Quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập dựa trên các căn cứ như: (i) Do địa thế, địa hình tự nhiên: lối đi, lối thoát nước, đây là quyền được tạo ra một cách tự nhiên nhưng do luật điều chỉnh; (ii) Do pháp luật quy định: theo quy tắc xây dựng như quyền về tầm nhìn, quyền đối với ánh sáng, không khí giữa các bất động sản liền kề; (iii) Quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập theo thời hiệu: 30 năm đi qua bất động sản khác ra đường công cộng (ra bờ biển) cũng được xác lập quyền địa dịch hoặc có những lối mòn đi qua đường công cộng và tất cả cư dân xung quanh đều đi qua lối mòn này, (iv) Do thỏa thuận: chủ sở hữu của 2 bất động sản liền kề có lập văn bản công chứng và đăng ký tại Văn phòng đăng ký đất đai về việc một bất động sản dành một phần diện tích đất để cho bất động sản khác có lối đi ra đường công cộng hay dành một khoảng không gian để có tầm nhìn, đón không khí và ánh sáng, (v) Do hành vi pháp lý đơn phương: qua di chúc.

Quyền đối với bất động sản liền kề có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân (có hiệu lực đối với cả chủ sở hữu của bất động sản chịu hưởng quyền). Quyền đối với bất động sản liền kề được chuyển giao khi bất động sản được chuyển giao, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề trước tiên theo thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thực hiện theo các nguyên tắc sau đây: Bảo đảm nhu cầu hợp lý của cả hai bên; Không được lạm dụng quyền đối với bất động sản chịu hưởng quyền; Không được thực hiện hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện quyền đối với bất động sản hưởng quyền trở nên khó khăn.

Nếu có thay đổi việc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề thì phải thông báo trước cho chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền trong một thời hạn hợp lý. Chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền phải tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền phù hợp với thay đổi này.

1.2.2 Quyền hưởng dụng

Là quyền của chủ thể được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác trong một thời hạn nhất định. Trong thời hạn của quyền hưởng dụng thì lợi ích kinh tế từ tài sản mang lại được xác lập cho chủ thể có quyền hưởng dụng chứ không phải cho chủ sở hữu của tài sản, trừ trường hợp chủ sở hữu của tài sản có thỏa thuận về tiền thuê được hưởng trước khi chuyển giao tài sản cho bên hưởng dụng khai thác, sử dụng.

Quyền hưởng dụng được xác lập theo các căn cứ:

  • Theo quy định của luật
  • Theo thoả thuận
  • Theo di chúc

Quyền hưởng dụng được xác lập từ thời điểm nhận chuyển giao tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.

Quyền hưởng dụng có hiệu lực đối kháng (với cả chủ sở hữu của tài sản) trong thời hạn của quyền. Thời hạn của quyền hưởng dụng: Do các bên thỏa thuận hoặc do luật quy định nhưng tối đa đến hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên nếu người hưởng dụng là cá nhân hoặc đến khi pháp nhân chấm dứt tồn tại nhưng tối đa 30 năm nếu người hưởng dụng đầu tiên là pháp nhân. Do quyền hưởng dụng có thể chuyển nhượng cho người khác trong thời hạn của quyền mà không cần có ý chí của chủ sở hữu tài sản nên có thể xuất hiện những người hưởng dụng kế tiếp (thứ hai, thứ ba…).

1.2.3 Quyền bề mặt

Là quyền của một chủ thể đối với mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước, lòng đất mà quyền sử dụng đất đó thuộc về chủ thể khác. Theo đó, trong các thông số đăng ký quyền bề mặt (trong tương lai Luật đăng ký tài sản nếu được ban hành sẽ giải quyết vấn đề đăng ký các quyền khác đối với tài sản, trong đó có quyền bề mặt) thì sẽ bao gồm độ cao, chiều rộng, chiều dài: ví dụ đối với các công trình xây dựng đường điện, cầu đường.

Quyền bề mặt được xác lập theo quy định của luật, theo thỏa thuận, theo di chúc.

Quyền bề mặt có hiệu lực từ thời điểm chuyển giao mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác. Thời hạn của quyền bề mặt được xác định theo quy định của luật, theo thoả thuận; theo di chúc nhưng với điều kiện: không vượt quá thời hạn của quyền sử dụng đất. Trường hợp không xác định thời hạn của quyền bề mặt thì mỗi bên có quyền chấm dứt quyền này bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết trước ít nhất là 06 tháng.

2. Các quyền khác đối với tài sản dưới góc độ của các biện pháp bảo đảm

2.1 Đối tượng của các biện pháp bảo đảm

Đối tượng của các biện pháp bảo đảm chính là các tài sản. Tài sản bao gồm tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản.

Các tài sản để trở thành tài sản bảo đảm thì cần đáp ứng các điều kiện sau: (i) Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm; (ii) Tài sản bảo đảm có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự.

Tài sản bảo đảm phải “bán” được – đó là điểm then chốt để tài sản bảo đảm có thể hoàn thành được “sứ mệnh” của mình: thanh toán giá trị nghĩa vụ bị vi phạm cho bên nhận bảo đảm. Theo nguyên lý chỉ có chủ sở hữu tài sản mới có quyền năng định đoạt số phận pháp lý của tài sản, trừ trường hợp đặc biệt có quyết định của nhà lập pháp hoặc chủ sở hữu ủy quyền hay chuyển giao quyền đó cho người khác đều phải dựa trên căn cứ luật định. Trong quan hệ bảo đảm, bên bảo đảm nhất thiết phải là chủ sở hữu của tài sản bảo đảm – đây là một nguyên tắc bất di bất dịch khi xác định tài sản bảo đảm. Những hạn chế quyền đối tài sản bảo đảm cần phải được bên bảo đảm thông báo cho bên bảo đảm tại thời điểm giao kết hợp đồng thế chấp.

Điều kiện thứ hai liên quan đến khả năng có thể chuyển giao trong các giao lưu dân sự của tài sản bảo đảm. Có hai yếu tố cơ bản để khẳng định một tài sản có thể chuyển giao trong các giao lưu dân sự, đó là: (i) tài sản đó không gắn với yếu tố nhân thân. Quyền yêu cầu cấp dưỡng, các loại bằng cấp, chứng chỉ…là những tài sản có đặc tính nhân thân chỉ thuộc về những chủ thể nhất định; (ii) tài sản đó không thuộc diện bị pháp luật cấm (không thuộc danh mục tài sản bị cấm lưu thông hoặc có quyết định thu giữ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền).

Bên cạnh hai điều kiện cơ bản trên, bên bảo đảm cũng cần đánh giá các yếu tố khác có ảnh hưởng đến tài sản bảo đảm như giá trị của tài sản bảo đảm để bảo đảm tính an toàn của đồng vốn cho vay, tính có thể kiểm soát của tài sản bảo đảm để còn thực hiện quyền truy đòi, tính thanh khoản của tài sản bảo đảm để bảo đảm rằng tài sản bảo đảm có thị trường tiêu thụ để dễ dàng khi phải xử lý chúng.

Tóm lại, tài sản bảo đảm phải đáp ứng được tính chắc chắn về các khía cạnh sau: (i) Chắc chắn bên bảo đảm có quyền sở hữu đối với tài sản: đó phải là người có tên trên bất động sản đã được kiểm tra thông qua hồ sơ đăng ký tại cơ quan địa chính; (ii) Chắc chắn rằng tài sản bảo đảm không có bất kỳ sự tranh chấp nào để giảm thiểu tối đa những rủi ro tiềm ẩn đối với tài sản bảo đảm; (iii) Chắc chắn về những hạn chế quyền đối với tài sản bảo đảm hay chính là chắc chắn về quyền của những chủ thể khác trên tài sản bảo đảm như: quyền về lối đi qua bất động sản, quyền của người đang thuê, đang mượn bất động sản thế chấp…; (iv) Chắc chắn rằng tài sản bảo đảm không thuộc đối tượng cấm chuyển giao hay cấm kê biên theo quy định của pháp luật.

Như vậy, xét dưới góc độ pháp lý những tài sản không đáp ứng được các điều kiện nêu trên thì không thể dùng để làm tài sản bảo đảm.

2.2 Các quyền khác và việc đáp ứng các điều kiện của tài sản bảo đảm

Theo quy định của pháp luật hiện hành không có đủ căn cứ để định giá (quy đổi thành tiền) các quyền khác đối với tài sản. Đồng thời để khẳng định 3 quyền: quyền đối với bất động sản liền kề; đối với quyền hưởng dụng; đối với quyền bề mặt là một loại tài sản là chưa có căn cứ về cơ sở lý luận. Về thực chất chúng chỉ là quyền trên tài sản chứ không phải là tài sản.

Tiếp theo, nếu soi chiếu các điều kiện của tài sản bảo đảm vào các quyền khác đối với tài sản thì có thể nhận thấy chúng không đáp ứng được đầy đủ. Đó là điều kiện:

(i) có thể chuyển giao trong các giao lưu dân sự: quyền đối với bất động sản liền kề không chuyển giao độc lập được mà hoàn toàn phụ thuộc vào bất động sản hưởng quyền; quyền hưởng dụng mà gắn liền với mỗi cá nhân cũng không định đoạt được, quyền bề mặt thường chỉ được chuyển giao kèm theo quyền thực hiện dự án hay đã phát sinh các tài sản cụ thể chứ không chuyển giao riêng quyền này;

(ii) có thể kiểm soát để thực hiện quyền truy đòi khi xử lý tài sản bảo đảm: các quyền khác đối với tài sản như trên đã phân tích đều là những quyền không ổn định và không chắc chắn.

Trên cơ sở những phân tích nêu trên thì có thể nhận thấy: các quyền khác là quyền đối với tài sản được phát sinh từ quyền sở hữu của chủ thể khác đối với tài sản của người khác, chứ không phải là quyền tài sản. Do không phải là một loại tài sản nên khả năng trở thành đối tượng của các biện pháp bảo đảm là không có căn cứ và cơ sở.

3. Những nội dung cần hoàn thiện pháp luật đối với các quyền khác đối với tài sản dưới góc độ là đối tượng của các biện pháp bảo đảm

Thứ nhất, cần hoàn thiện việc đăng ký các quyền khác đối với tài sản để phù hợp với bản chất vật quyền của chúng. Các quyền này được pháp luật ghi nhận trên tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác thì cần phải có cơ chế đăng ký để công bố quyền của chủ thể. Việc công khai quyền này giúp cho việc minh bạch tình trạng pháp lý của tài sản (giúp mọi chủ thể nhận biết tại cùng một thời điểm thì bên cạnh chủ sở hữu còn có những ai cũng đang có quyền hợp pháp trên tài sản, hiệu lực và thời hạn của quyền) và là cơ sở pháp lý để các chủ thể có quyền khác này thực hiện tốt nhất quyền của mình trên thực tế.

Thứ hai, cần có những quy định rõ ràng hơn về nội hàm của các quyền này: Cụ thể: (i) Khoản 2 Điều 260 BLDS năm 2015 quy định: “Người hưởng dụng có quyền cho thuê quyền hưởng dụng trong thời hạn quy định”. (ii) Khoản 3 Điều 271 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp quyền bề mặt được chuyển giao một phần hoặc toàn bộ thì chủ thể nhận chuyển giao được kế thừa quyền bề mặt theo điều kiện và trong phạm vi tương ứng với phần quyền bề mặt được chuyển giao

Với quy định này khiến cho người đọc và áp dụng pháp luật hiểu là: các quyền này trở thành đối tượng của các giao dịch dân sự, thương mại và chúng được nhìn nhận như là một loại quyền tài sản và là tài sản. Nhưng như trên đã phân tích bản chất của các quyền này không phải như vậy và điều này sẽ dẫn đến cách hiểu lầm về việc cần ghi nhận chúng là đối tượng của các biện pháp bảo đảm. Chúng tôi cho rằng, các chủ thể của quyền hưởng dụng có quyền cho thuê tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng chứ không phải cho thuê quyền hưởng dụng. Tương tự, chủ thể của quyền bề mặt có quyền định đoạt tài sản mà họ tạo ra trong phạm vi quyền bề mặt của họ chứ không phải là chuyển giao quyền bề mặt.

Thứ ba, cần bổ sung quy định cụ thể về chủ thể quyền bề mặt có quyền thế chấp, cầm cố tài sản tạo ra và sở hữu trong thời hạn có hiệu lực của quyền bề mặt. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng cần phải bổ sung các quy định về xử lý mối quan hệ giữa quyền của chủ thể có quyền sử dụng đất với chủ thể có quyền bề mặt (là bên dùng tài sản làm bảo đảm) với bên nhận bảo đảm khi nhận thế chấp và mối quan hệ giữa chủ thể có quyền sử dụng đất với bên có quyền bề mặt (bên bảo đảm) với người mua tài sản bào đảm trong thời hạn của quyền bề mặt khi xử lý tài sản bảo đảm. Những quy định này là phù hợp với bản chất của loại tài sản này, đáp ứng được nhu cầu của các chủ thể về khai thác mọi giá trị của tài sản để có thể tiếp cận nguồn vốn và cũng tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các tổ chức tín dụng hay các chủ thể cung cấp vốn khác có thể nhận những tài sản này làm tài sản bảo đảm.

Trên đây là những phân tích về “Quyền khác đối với tài sản – góc độ đối tượng của biện pháp bảo đảm”. Hy vọng qua bài viết của chúng tôi, giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này. Nếu có bất kỳ thắc mắc về nội dung trên hoặc những vấn đề về pháp luật khác hãy liên hệ hotline 1900.6568 để được chuyên viên tư vấn và hỗ trợ.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon