Phạm vi pháp luật được dẫn chiếu đến là gì?

pham-vi-phap-luat-duoc-dan-chieu-den-la-gi

Trong hệ thống pháp luật, các quy định không tồn tại một cách riêng lẻ mà có sự liên kết, bổ sung và tác động lẫn nhau để tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Một trong những nguyên tắc quan trọng trong áp dụng và giải thích pháp luật chính là việc dẫn chiếu đến các quy phạm pháp luật có liên quan nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Đồng thời tránh tình trạng chồng chéo hoặc mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Vậy phạm vi pháp luật được dẫn chiếu đến bao gồm những nội dung gì và có ý nghĩa như thế nào trong thực tiễn pháp lý? Cùng Luật Dương Gia tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây.

1. Phạm vi pháp luật được dẫn chiếu là gì?

Trong Tư pháp quốc tế có hai loại quy phạm là quy phạm thực chất và quy phạm xung đột. Quy phạm thực chất là quy phạm trực tiếp điều chỉnh quan hệ, quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ các bên trong quan hệ. Quy phạm xung đột là quy phạm không trực tiếp điều chỉnh quan hệ mà xác định luật nào được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Thông qua quy phạm xung đột pháp luật của quốc gia được áp dụng gọi là pháp luật được dẫn chiếu đến.

Trên cơ sở đó, tại Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về phạm vi pháp luật được dẫn chiếu đến như sau:

“Điều 668. Phạm vi pháp luật được dẫn chiếu đến

  1. Pháp luật được dẫn chiếu đến bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng và quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
  2. Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật Việt Nam về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.
  3. Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba thì quy định của pháp luật nước thứ ba về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.
  4. Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật này thì pháp luật mà các bên lựa chọn là quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, không bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng”.

Như vậy, có thể hiểu, phạm vi pháp luật được dẫn chiếu là giới hạn hoặc phạm vi áp dụng của một quy phạm pháp luật khi nó được viện dẫn (dẫn chiếu) trong một văn bản quy phạm pháp luật khác. Nói cách khác, đây là phần quy định cụ thể mà một điều luật hoặc văn bản pháp luật khác tham chiếu đến để áp dụng hoặc giải thích.

Dù việc dẫn chiếu này sẽ phức tạp đối với một vài nước trên thế giới nhưng đều nhằm mục đích để tránh trùng lặp quy định, hệ thống hóa và liên kết các quy phạm pháp luật, đồng thời đảm bảo tính nhất quán và thống nhất trong áp dụng pháp luật. Nhờ cơ chế này, hệ thống pháp luật trở nên chặt chẽ, logic hơn, giúp các cơ quan thực thi và người dân dễ dàng áp dụng các quy định một cách chính xác.

2. Nguyên nhân của hiện tượng dẫn chiếu

Thứ nhất, quy phạm xung đột có hai bộ phận cấu thành: phần phạm vi và phần hệ thuộc. Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện khi một vấn đề pháp lý thuộc phần phạm vi của hai quy phạm xung đột của hai nước có phần hệ thuộc khác nhau hay là do có sự quy định khác nhau trong các quy phạm xung đột của các nước về nguyên tắc chọn luật áp dụng cho cùng một vấn đề pháp lý.

Nguyên nhân thứ hai có khả năng làm phát sinh dẫn chiếu là việc giải thích các hệ thuộc luật của các nước có thể rất khác nhau. có thể dẫn đến khả năng một vấn đề pháp lý sẽ được hệ thống pháp luật của hai nước đều cho rằng, sẽ được áp dụng (gọi là xung đột tích cực), hoặc cả hai nước đều từ chối áp dụng, cho ràng pháp luật của nước mình không có thẩm quyền áp dụng (gọi là xung đột tiêu cực).

3. Nội dung pháp luật được dẫn chiếu đến

Theo khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự nêu trên thì pháp luật được dẫn chiếu đến bao gồm cả quy định về xác định pháp luật áp dụng và quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự. Nội dung này do quy phạm xung đột thông thường (là quy phạm trong pháp luật quốc gia Việt Nam) dẫn chiếu đến.

Theo đó, việc dẫn chiếu này thường bao gồm hai phần quan trọng: phần luật xung đột và phần luật thực định. Phần luật xung đột bao gồm các quy phạm pháp luật quy định cách xác định pháp luật áp dụng trong trường hợp có xung đột giữa các hệ thống pháp luật khác nhau, đặc biệt trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Đây là công cụ quan trọng giúp xác định xem luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng khi có sự khác biệt hoặc chồng chéo giữa các quy định pháp luật của các quốc gia liên quan. Trong khi đó, phần luật thực định là hệ thống các quy phạm điều chỉnh quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài. Đây là những quy định chi tiết về nội dung quyền lợi, trách nhiệm của các chủ thể trong giao dịch, hợp đồng hoặc các quan hệ dân sự khác có yếu tố nước ngoài.

Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng dựa trên quyền thỏa thuận lựa chọn của các bên thì pháp luật được dẫn chiếu đến chỉ có phần luật thực chất, tức phần quy định về quyền, nghĩa vụ các bên. Vì khi có thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng, các bên mong muốn được giải quyết theo quy định trực tiếp của quốc gia đó,  nếu áp dụng đối với cả phần luật xung đột sẽ dẫn đến tình trạng như dẫn chiếu ngược, dẫn chiếu đến pháp luật một nước thứ ba, khiến quá trình điều chỉnh quan hệ phức tạp và không theo mong muốn ban đầu của các bên trong quan hệ.

4. Dẫn chiếu ngược về pháp luật Việt Nam

Quy định về quy phạm xung đột của các nước dù có điểm tương đồng, tuy nhiên không thể tránh khỏi có sự nhau, chính sự khác nhau trong cách thức lựa chọn hệ thuộc luật áp dụng mà dẫn đến hiện tượng dẫn chiếu ngược. Dẫn chiếu ngược là hiện tượng pháp luật nước được dẫn chiếu, dẫn chiếu trở lại pháp luật nước dẫn chiếu[1]. Nói dễ hiểu hơn là khi pháp luật Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật một quốc gia nào đó, thì trong quy phạm xung đột của quốc gia đó lại dẫn chiếu ngược đến việc áp dụng pháp luật Việt Nam.

Ví dụ: A là người Hàn Quốc,  B là người Việt Nam kết hôn với nhau tại Việt Nam, theo khoản 1 Điều 126 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014  quy định: “trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn”. Như vậy, theo quy định pháp luật Việt Nam thì A phải tuân pháp luật của Hàn Quốc về điều kiện kết hôn. Tuy nhiên, giả sử pháp luật Hàn Quốc lại dẫn chiếu đến việc điều kiện kết hôn với người ngoài phải tuân theo pháp luật tại quốc gia tiến hành kết hôn. Như vậy trong trường hợp này pháp luật Việt Nam dẫn chiếu đến pháp luật Hàn Quốc, pháp luật Hàn Quốc lại dẫn chiếu ngược về áp dụng pháp luật Việt Nam.

Trong trường hợp dẫn chiếu ngược thì chỉ dẫn chiếu đến pháp luật thực định của quốc gia được dẫn chiếu ngược. Vì vậy, việc dẫn chiếu ngược về pháp luật Việt Nam thì áp dụng quy định về quyền, nghĩa vụ của pháp luật Việt Nam đối với các bên trong quan hệ. Nếu tiếp tục dẫn chiếu đến quy phạm xung đột thì sẽ không thể giải quyết vụ việc được, vì pháp luật các nước sẽ dẫn chiếu qua lại lẫn nhau.

5. Dẫn chiếu đến nước thứ ba

Dẫn chiếu đến nước thứ ba là việc pháp luật của nước được dẫn chiếu tiếp tục dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba.

Ví dụ: pháp luật Việt Nam dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật của Mỹ, pháp luật của Mỹ lại dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của Pháp. Căn cứ phát sinh trường hợp này cũng giống với dẫn chiếu ngược. Theo như quy định tại khoản 1 điều này thì pháp luật dẫn chiếu đến bao gồm cả pháp luật xung đột và pháp luật thực định của quốc gia đó. Nếu dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật thực định thì quan hệ dân sự sẽ được điều chỉnh theo quy định về quyền, nghĩa vụ của quốc gia có luật được dẫn chiếu đến. Nếu dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật xung đột thì không tránh khỏi trường hợp pháp luật quốc gia đó dẫn chiếu áp dụng quy định của một quốc gia thứ ba, vì quy định pháp luật của các nước là không giống nhau.

Trong trường hợp này nhằm tránh việc dẫn chiếu đến pháp luật của quá nhiều quốc gia khác (trong trường hợp pháp luật xung đột của nước thứ ba dẫn chiếu áp dụng pháp luật của nước thứ tư, thứ năm,…) thì pháp luật Việt Nam quy định, khi dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba thì chỉ áp dụng quy định quy định luật thực chất của quốc gia này.

Như đã trình bày ở trên, trong trường hợp pháp luật được dẫn chiếu do thỏa thuận của các bên thì chỉ luật thực định của nước đó được áp dụng. Quy định về thỏa thuận lựa chọn áp dụng luật của các bên nhằm tạo điều kiện để các bên được chọn pháp luật của quốc gia mà họ tin là có lợi cho mình. Do lựa chọn pháp luật áp dụng là mong muốn, nguyện vọng của các chủ thể, vậy nên nếu tiếp tục dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba hay dẫn chiếu ngược sẽ không phù hợp với ý chí ban đầu của các bên, làm mất tính tự do thỏa thuận. Nên pháp luật cho phép pháp luật của quốc gia mà các bên thỏa thuận lựa chọn, chỉ áp dụng phần quy định trực tiếp về quyền, nghĩa vụ của họ.

Trên đây là những thông  tin liên quan đến phạm vi pháp luật được dẫn chiếu, hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon