Giải quyết tranh chấp nợ chung của hai vợ chồng khi ly hôn

giai-quyet-tranh-chap-no-chung-cua-hai-vo-chong-khi-ly-hon

Xã hội ngày càng phát triển, hình thức sở hữu và thành phần kinh tế ngày càng đa dạng hóa, thì giao dịch dân sự được thực hiện ngày càng nhiều. Trong đó chiếm phần lớn là các giao dịch do vợ, chồng thực hiện. Hiện pháp luật dân sự nói chung và pháp luật hôn nhân gia đình nói riêng đã có những quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong các giao dịch do vợ, chồng thực hiện.

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các vụ, việc hôn nhân và gia đình do Tòa án thụ lý, giải quyết diễn ra ngày càng nhiều, gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất. Bên cạnh vấn đề về tài sản chung thì nợ chung cũng là vấn đề nhiều cặp vợ chồng yêu cầu tòa án giải quyết khi ly hôn. Cùng luật Dương Gia tìm hiểu vấn đề này trong nội dung bài viết dưới đây.

1. Thực tiễn giải quyết nợ chung khi ly hôn

Chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng số các loại vụ, việc hôn nhân và gia đình trên là các tranh chấp liên quan đến xác định quyền và nghĩa vụ về tài sản (trong đó có các khoản nợ) của vợ, chồng, trong đó có xác định quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng trong các giao dịch do vợ, chồng thực hiện.

Ly hôn là việc chấm dứt cho một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, khi mà cả hai bên không còn tiếng nói chung, mục đích hôn nhân không đạt được. Tuy nhiên, những hệ lụy kèm theo trong quá trình giải quyết việc ly hôn không phải là vấn đề nhỏ, đặc biệt về phân chia tài sản sau khi ly hôn mà trong đó phải kể đến vấn đề nợ chung, nợ riêng. Vậy sau khi ly hôn, nợ chung, nợ riêng của vợ chồng được giải quyết như thế nào?

Quan hệ tài sản giữa vợ, chồng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân, rất khó để xác định được công sức đóng góp giữa hai bên. Tài sản chung của vợ, chồng là sở hữu chung hợp nhất, về mặt nguyên tắc vợ, chồng có nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, nó xuất phát từ quyền bình đẳng của vợ, chồng đối với tài sản chung.

Tài sản chung của vợ chồng được hình thành, xác lập từ khi vợ chồng kết hôn và tồn tại trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp vợ, chồng yêu cầu chia toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn thực chất là việc phân chia toàn bộ tài sản chung của vợ chồng đã tạo lập, duy trì và phát triển trong thời kỳ hôn nhân cho mỗi bên trên cơ sở thỏa thuận của vợ, chồng hoặc theo quy định pháp luật. Khi ly hôn ngoài quyền về tài sản, các nghĩa vụ về tài sản như nợ chung, nợ riêng cũng là vấn đề tranh chấp phổ biến giữa các cặp vợ chồng hiện nay.

Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành thì nghĩa vụ chung của vợ chồng phát sinh trong thời kì hôn nhân thì vợ chồng phải liên đới chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, thực tế có những nghĩa vụ phát sinh trong thời kì hôn nhân nhưng không phải là nghĩa vụ chung của vợ chồng như khoản vay riêng của vợ hoặc chồng mà bên còn lại không biết và khoản vay sử dụng vào mục đích riêng của vợ, chồng thì bên còn lại không có nghĩa vụ liên đới cùng chi trả. Thực tế, việc chứng minh khoản vay riêng thường rất khó nên thường xảy ra các tranh chấp liên quan đến việc xác định nghĩa vụ chung, riêng của vợ chồng.

Nợ chung của vợ chồng là những khoản nợ phát sinh từ giao dịch hàng ngày do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập hay nghĩa vụ bồi thường thiệt hại hai vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm. Là nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.

Nợ riêng là những khoản nợ có từ trước thời kỳ hôn nhân của vợ/chồng hoặc những khoản vợ/chồng vay mượn mà không sử dụng vào mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.

Theo quy định tại Điều 25 Luật Hôn nhân và Gia đình, thì vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.

Tại khoản 3, Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.

Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có nêu“Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”.

2. Những khoản nợ được xem là nợ chung của hai vợ chồng

Rất nhiều trường hợp hai vợ chồng có mâu thuẫn, không thể xác định được đâu là nợ chung, đâu là nợ riêng. Cá biệt có trường hợp vợ hoặc chồng tự ý “ký thêm” hợp đồng vay với người khác để yêu cầu tòa xác nhận đó là nợ chung. Hoặc ngược lại, cả hai đều dùng số tiền vay được nhưng chỉ có một người ký, đến khi ly hôn bên còn lại yêu cầu Tòa án xác định đó là nợ riêng. Theo đó, những khoản sau đây được xem là nợ chung của hai vợ, chồng.

+ Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập;

+ Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

+ Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;

+ Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

+ Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

+ Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 thì cha mẹ phải bồi thường;

+ Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Như vậy, nếu vợ hoặc chồng hay cả hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có giao dịch với người khác để vay nợ nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình (như sửa chữa, xây dựng nhà ở..), mà nay vợ, chồng không tự thỏa thuận được nghĩa vụ trả nợ là nghĩa vụ chung của vợ chồng, hay riêng của vợ hoặc chồng và có yêu cầu Tòa án giải quyết việc thanh toán nợ khi ly hôn, thì Tòa án sẽ căn cứ vào chứng cứ, lời khai để đánh giá, kết luận có hay không việc vay nợ; mục đích vay nợ, việc sử dụng tài sản vay nợ cho nhu cầu chung của gia đình, hay nhu cầu riêng của vợ, hoặc chồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án sẽ triệu tập chủ nợ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và triệu tập người làm chứng (nếu có) để làm rõ các vấn đề thanh toán nợ khi ly hôn. Chủ nợ có thể đưa ra yêu cầu độc lập để bảo vệ quyền lợi của họ.

Một trong những giao dịch hay được  các  cặp  vợ  chồng  thực  hiện  và  phải thanh toán nợ khi ly hôn là giao dịch vay vốn ngân hàng. Vậy khi ly hôn thì Ngân hàng sẽ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án ly hôn nếu vợ chồng yêu cầu Tòa giải quyết.

Thông thường, trong hợp đồng tín dụng với ngân hàng, ngân hàng thường có điều khoản ràng buộc đối với trường hợp vợ chồng ly hôn, đó là yêu cầu trả nợ trước thời hạn. Đề nghị này trong hợp đồng tín dụng của ngân hàng là chính đáng, bởi lẽ khi ly hôn, việc thu hồi nợ của vợ, chồng sẽ xảy ra rất nhiều khó khăn như: không có sự hợp tác, ràng buộc của các đương sự. luật sư giỏi Như vậy, vợ chồng có nghĩa vụ liên đới trong việc thanh toán khoản nợ với người thứ ba trong khi thực hiện giao dịch vì mục đích gia đình. Khi ly hôn, vợ chồng có nghĩa vụ thanh toán nợ và đảm bảo quyền lợi hợp pháp ngay tình của người thứ ba.

Đối với các khoản “nợ chung” của vợ chồng, thì vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với  giao dịch do một bên  thực hiện  quy định  tại  khoản 1  Điều  30, giao dịch  khác phù hợp với quy định về đại diện tại các Điều 24, 25 và 26 của Luật này  và các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.

Liên đới trả nợ nếu khoản vay nợ là nợ chung của hai vợ chồng hoặc khoản nợ do vợ hoặc chồng vay  nhưng thuộc các khoản mà  pháp luật quy  định vợ chồng phải trả chung.

Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ, chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.

Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, đối với các vụ việc tranh chấp dân sự, đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và đúng pháp luật. Nếu không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.

3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về nợ chung của hai vợ chồng

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28  và điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền tranh chấp nợ chung khi ly hôn của vợ chồng.

Trường hợp vụ việc có yếu tố nước ngoài, một trong hai bên, vợ hoặc chồng là người nước ngoài thì thẩm quyền giải quyết là của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Trong thực tiễn, việc xác định quyền và nghĩa vụ về các khoản nợ của vợ chồng trong các giao dịch do vợ, chồng thực hiện vẫn còn tồn tại một số bất cập, cụ thể:

Trong các vụ án ly hôn hiện nay chủ yếu là tranh chấp về tài sản, tra tranh chấp về việc ai phải thanh toán các khoản nợ như khoản nợ vay của người quen, của gia đình, của ngân hàng. Thường vay nợ của cá nhân thì chỉ một bên vợ, chồng đứng ra vay, có thể có giấy tờ hoặc không nên khi ly hôn thì người còn lại không muốn chịu trách nhiệm vì cho rằng mình không biệt việc vay mượn đó, không được sử dụng tài sản đó. Việc vay mượn này có thể thực sự là vì nhu cầu thiết yếu của gia đình vì nhu cầu riêng của người vay, do dó, Toà án cũng gặp khó khăn khi giải quyết các vụ việc này.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon