Hội nhập trong quan hệ quốc tế với các quốc gia trên thế giới là xu hướng phát triển kinh tế – xã hội tất yếu của mỗi quốc gia. Để bảo đảm việc hội nhập được thực hiện hiệu quả và theo một khuôn khổ nhất định, Việt Nam đã ban hành Luật điều ước quốc tế năm 2016 quy định về việc ký kết, bảo lưu, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện, lưu chiểu, lưu trữ, sao lục, đăng tải, đăng ký và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế. Vậy “Ký kết điều ước quốc tế là gì? Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế? Quy trình các bước ký kết điều ước quốc tế” bài viết dưới đây của chứng tôi sẽ giải đáp các vấn đề trên.
1. Ký kết Điều ước quốc tế là gì?
Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định quy trình ký kết điều ước quốc tế như sau:
Ký là hành vi pháp lý do người có thẩm quyền hoặc người được ủy quyền thực hiện, bao gồm ký điều ước quốc tế không phải phê chuẩn hoặc phê duyệt và ký điều ước quốc tế phải phê chuẩn hoặc phê duyệt.
Ký kết là hành vi pháp lý do người có thẩm quyền hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, bao gồm đàm phán, ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế hoặc trao đổi văn kiện tạo thành điều ước quốc tế.
Ký kết điều ước quốc tế là cả một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau như đàm phán, soạn thảo, thông qua, ký, phê chuẩn hoặc phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế. Mỗi giai đoạn này có sự liên hệ chặt chẽ với nhau hết sức logic và hợp lý.
2. Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế
– Các quốc gia: Về nguyên tắc, tất cả các quốc gia đều có thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế nhiều trường hợp quốc gia có thể từ chối hoặc chuyển cho một quốc gia (VD: Hiệp ước về liên minh thuế quan giữa Thụy Sỹ và Liechtenstein năm 1923 ghi nhận Thụy Sỹ sẽ ký các điều ước quốc tế nhân danh Liechtenstein), hay tổ chức quốc tế khác thực hiện thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế (VD: Trong một số trường hợp nhất định cộng đồng Châu âu có thể thay mặt cho các quốc gia thành viên ký kết một số điều ước quốc tế nhất định).
– Các tổ chức quốc tế: Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình các tổ chức quốc tế sẽ tiến hành ký kết các điều ước quốc tế xuất phát từ quyền năng chủ thể luật quốc tế của mình.
– Một số thực thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế: như: tòa thánh Vaticăng, Đài Loan, Hồng Kông, Ma cao…cũng tham gia ký kết một số điều ước quốc tế nhất định.
Khi ký kết các điều ước quốc tế, các chủ thể thông qua các đại diện của mình là đại diện đương nhiên, không cần thư ủy nhiệm, bao gồm:
- Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, bộ trưởng bộ ngoại giao trong mọi hoạt động liên quan đến việc ký kết điều ước quốc tế;
- Người đứng đầu các cơ quan đại diện ngoại giao trong việc thông qua văn bản của một điều ước quốc tế giữa nước cử cơ quan đại diện và nước sở tại;
- Những người thay mặt cho quốc gia tại các hội nghị quốc tế hoặc tại tổ chức quốc tế.
– Ngoài các đại diện nêu trên, những người đứng đầu các bộ hay cơ quan ngang bộ cũng có quyền ký các điều ước quốc tế thuộc lĩnh vực mà mình quản lý. Ngoài ra, đối với các đại diện phải có thư ủy nhiệm khi tham gia quá trinh ký kết điều ước quốc tế thì phải xuất trình thư ủy nhiệm.
– Tại khoản 1 điều 2 Luật ký kết và thực hiện điều ước quốc tế 2005 của Việt nam quy định “Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thỏa thuận quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác của luật quốc tế…”. Điều này khẳng định rằng, điều ước quốc tế hai bên hoặc nhiều bên mà Việt nam ký kết hoặc gia nhập được với 2 danh nghĩa là nhà nước và chính phủ (không có các bộ, ngành). Dưới góc độ pháp lý quốc tế, thì điều ước quốc tế dù được ký dưới danh nghĩa nhà nước hay chính phủ đều có giá trị pháp lý như nhau, vì nó đều là kết quả của sự thỏa thuận giữa các chủ thể luật quốc tế. Việc quy định 2 danh nghĩa ký kết này chỉ có ý nghĩa đối với quá trình thực hiện điều ước quốc tế sau này. Cũng theo quy định tại Luật 2005, thì đại diện cho quốc gia thực hiện các hành vi ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế là Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ hoặc đại diện được ủy quyền (có thể là các Bộ, ngành chức năng thuộc hệ thống chính trị của Nhà nước Việt nam).
3. Trình tự ký kết điều ước quốc tế
3.1. Các giai đoạn ký kết
Ký kết điều ước quốc tế là cả một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau như đàm phán, soạn thảo, thông qua, ký, phê chuẩn hoặc phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế. Mỗi giai đoạn này có sự liên hệ chặt chẽ với nhau hết sức logíc và hợp lý. Nhìn chung, quá trình ký kết điều ước quốc tế chủ yếu được tiến hành qua 2 giai đoạn chính, đó là:
Giai đoạn 1: Giai đoạn hình thành các văn bản điều ước: Trong giai đoạn này, các bên sẽ thực hiện các hành vi như: đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước. Thực hiện xong các hành vi này, điều ước quốc tế vẫn chưa phát sinh hiệu lực, tuy nhiên nếu thiếu các hành vi này thì một điều ước quốc tế không thể được hình thành
- Đàm phán: Bản chất của đàm phán là sự thương lượng, đấu tranh về lợi ích giữa các chủ thể tham gia ký kết điều ước quốc tế nhằm đi đến một thỏa thuận chung nhất. Do đó, sự thành công hay thất bại của đàm phán phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí và sự hợp tác của các bên. Có nhiều cách thức đàm phán khác nhau, như: đàm phán trên cơ sở của dự thảo văn bản đã chuẩn bị trước của mỗi bên hay một bên hoặc cùng đàm phán để trực tiếp xây dựng văn bản điều ước.
- Soạn thảo: Trong trường hợp đàm phán thành công, văn bản điều ước sẽ được soạn thảo chính thức để các bên thông qua. Với điều ước quốc tế song phương, các bên thường cử đại diện tham gia soạn thảo, còn đối với điều ước quốc tế đa phương thì việc soạn thảo sẽ được giao cho một cơ quan do các bên thống nhất lập ra.
- Thông qua văn bản điều ước: Đây là thủ tục không thể thiếu trong giai đoạn này. Thông qua văn bản điều ước chính là hình thức để các bên biểu hiện sự nhất trí của mình đối với văn bản điều ước đã được soạn thảo. Thực tiễn ký kết điều ước quốc tế cho thấy, có nhiều cách để thông qua văn bản điều ước, như: biểu quyết, ký tắt, thỏa thuận miệng. Văn bản được các bên nhất trí thông qua là văn bản cuối cùng, các bên không được phép đơn phương sửa đổi, chỉnh lý hoặc thay đổi bất kỳ quy định nào trong văn bản
Giai đoạn 2: Giai đoạn thực hiện các hành vi nhằm thể hiện sự ràng buộc của quốc gia với điều ước quốc tế và có giá trị tạo ra hiệu lực thi hành của điều ước đó. Giai đoạn này có 4 hành vi được thực hiện đó là: hành vi ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế.
3.2. Ký điều ước quốc tế
Ký là một bước không thể thiếu trong trình tự ký kết điều ước quốc tế. Có 3 hình thức ký điều ước quốc tế, đó là:
– Ký tắt: Là chữ ký của các vị đại diện quốc gia tham gia đàm phán nhằm xác nhận văn bản dự thảo điều ước quốc tế. Ký tắt chưa làm phát sinh hiệu lực của điều ước.
– Ký Ad Referendum: Là chữ ký của các vị đại diện với điều kiện có sự đồng ý tiếp sau đó của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật quốc gia. Về nguyên tắc, hành vi ký ad cũng không làm phát sinh hiệu lực của điều ước, tuy nhiên hình thức ký này cũng có thể làm phát sinh hiệu lực cho điều ước nếu cơ quan có thẩm quyền của quốc gia tỏ rõ sự chấp thuận chữ ký này.
– Ký đầy đủ (ký chính thức): Là chữ ký của các vị đại diện vào văn bản dự thảo điều ước. Về nguyên tắc, hình thức ký đầy đủ luôn làm phát sinh hiệu lực của điều ước. Trừ trường hợp điều ước này quy định các bên phải tiến hành phê chuẩn, phê duyệt thì sau hành vi phê chuẩn, phê duyệt này điều ước mới có hiệu lực thi hành.
3.3. Phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế
– Phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế là những hành vi do quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế tiến hành nhằm xác nhận sự đồng ý ràng buộc với một điều ước quốc tế nhất định. Cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế đều ghi nhận giá trị pháp lý ngang nhau của hành vi phê chuẩn và phê duyệt điều ước quốc tế. Sự khác nhau căn bản giữa hai hành vi này là ở thẩm quyền tiến hành hai hành vi trên và nội dung của điều ước quốc tế đề cập. Việc áp dụng thủ tục phê chuẩn hay phê duyệt đối với một điều ước quốc tế thường do các bên thỏa thuận và được ghi rõ ngay trong nội dung của văn bản điều ước.
– Gia nhập điều ước quốc tế là hành động của một chủ thể luật quốc tế đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một điều ước quốc tế đa phương đối với chủ thể đó. Việc gia nhập thường được đặt đối với quốc gia khi thời hạn ký kết điều ước đã chấm dứt hoặc điều ước đã có hiệu lức mà quốc gia đó chưa phải là thành viên. Về thủ tục gia nhập điều ước quốc tế, những điều ước quốc tế nào được gia nhập hoặc không được gia nhập phụ thuộc vào quy định cụ thể của điều ước đó hoặc phụ thuộc vào các thành viên của điều ước. Thông thường thủ tục gia nhập được tiến hành theo các cáh sau: gửi công hàm xin gia nhập hoặc ký trực tiếp vào văn bản điều ước.
4. Bảo lưu điều ước quốc tế
4.1. Khái niệm
Bảo lưu điều ước quốc tế là hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia nhằm loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một số điều khoản nhất định của điều ước. Những điều khoản đó gọi là những điều khoản bị bảo lưu.
Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế ghi nhận “Bảo lưu điều ước quốc tế là hành động đơn phương bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào của một quốc gia đưa ra khi ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặ gia nhập điều ước đó, nhằm qua đó loai trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một số quy định của điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó”.
Như vậy, bảo lưu được thừa nhận là quyền của các chủ thể luật quốc tế, tuy nhiên quyền này không phải là tuyệt đối. Quốc gia có thể đưa ra tuyên bố bảo lưu vào thời điểm quốc gia thực hiện các hành vi nhằm xác nhận sự ràng buộc của một điều ước đối với quốc gia đó.
Cũng theo Công ước Viên 1969, quốc gia chỉ được phép đưa ra tuyên bố bảo lưu khi sự bảo lưu đó:
– Không bị cấm ngay trong điều ước (VD: Công ước Luật Biển cấm các quốc gia bảo lưu bất kỳ điều khoann nào của Công ước);
– Phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước;
– Việc bảo lưu điều ước quốc tế chỉ có thể được thực hiện đối với các điều ước quốc tế đa phương;
– Đối với các điều ước quốc tế song phương, việc một bên đưa ra tuyên bố bảo lưu sẽ được coi như một đề nghị thỏa thuận lại, ký kết điều ước mới.
4.2. Trình tự thực hiện bảo lưu
Trong trường hợp điều ước quốc tế quy định rõ điều khoản nào được bảo lưu thì việc bảo lưu đới với điều khoản đó không cần tới sự đồng ý rõ ràng và riêng biệt từ phía các quốc gia ký kết khác. Khi đó, quốc gia sẽ chỉ tuyên bố bảo lưu trong phạm vi mà điều ước cho phép.
– Riêng với trường hợp điều ước quốc tế không có điều khoản quy định liên quan đến bảo lưu thì: Việc bảo lưu phải được tất cả các quốc gia thành viên chấp nhận nếu số quốc gia đàm phán có hạn hoặc việc thi hành toàn bộ điều ước là điều kiện dẫn tới sự chấp nhận ràng buộc của các bên đối với điều ước; một bảo lưu coi như được một quốc gia chấp nhận nếu quốc gia đó không phản đối trong vòng 12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo về bảo lưu; nếu điều ước quốc tế là văn kiện về thành lập tổ chức quốc tế thì bảo lưu phải được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức đó.
– Việc tuyên bố bảo lưu, sự phản đối bảo lưu và sự đồng ý với bảo lưu phải được thể hiện dưới hình thức văn bản và thông báo một cách công khai cho các quốc gia thành viên, riêng trường hợp đồng ý bảo lưu có thể được thể hiện dưới dạng im lặng.
– Quốc gia tuyên bố bảo lưu có quyền rút bảo lưu trong bất kỳ thời gian nào. Trong trường hợp này, sự đồng ý từ phía các quốc gia công nhận bảo lưu là không cần thiết.
– Tuyên bố về phản đối bảo lưu cũng có thể được quốc gia tuyên bố hủy bỏ vào bất kỳ thời gian nào nhưng phải đựoc thể hiện dưới hình thức văn bản.
4.3. Hệ quả pháp lý của bảo lưu
Bản chất của bảo lưu không nhằm đưa các điều khoản bị bảo lưu ra khỏi nội dung của một điều ước quốc tế, nhưng về tổng thể quan hệ giữa các quốc gia thành viên của một điều ước sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu. Theo đó,
– Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia chấp nhận bảo lưu được thực hiện bằng các điều ước quốc tế, trừ các điều khoản liên quan đến bảo lưu.
– Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu vẫn được điều chỉnh bằng điều ước quốc tế đó, không loại trừ các điều khoản bảo lưu không được chấp nhận. Tuy nhiên, từ việc phản đối bảo lưu do một quốc gia đưa ra, cũng có thể làm cho quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu không còn tồn tại quan hệ điều ước. Điều này phụ thuộc vào quan điểm của mỗi bên.