Quy định về hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

quyet-dinh-hinh-phat-duoi-muc-thap-nhat-cua-khung-hinh-phat-quy-dinh-tai-bo-luat-hinh-su

Trong hệ thống pháp luật, quyết định về hình phạt đôi khi đòi hỏi một quá trình phân tích cẩn thận và chi tiết. Trong nhiều trường hợp, pháp luật đề xuất các khung hình phạt với mức độ đa dạng, từ những hình phạt nhẹ như phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ,.. đến những hình phạt nặng như phạt tù từ 3 năm đến 10 năm, hoặc chung thân, tử hình.

Tuy nhiên, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là một vấn đề đáng chú ý. Việc này đặt ra câu hỏi về cách áp dụng công bằng và hiệu quả của luật pháp, cũng như vai trò của quan điểm nhân quả trong quá trình tư vấn và đưa ra quyết định. Trong bài viết này, hãy cùng Luật Dương Gia phân tích trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thông qua việc phân tích một trường hợp cụ thể và những yếu tố cần xem xét khi quyết định áp dụng hình phạt ở mức thấp nhất của khung hình phạt.

Căn cứ pháp lý

1. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng được quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Khoản 7 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) cụ thể như sau:

Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

  1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
  2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
  3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

1.1.Về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về trường hợp được áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ. Đây là một quy định quan trọng về quyền lợi và trách nhiệm của Tòa án trong việc quyết định hình phạt.

Điều này đặt ra một số vấn đề cần phải xem xét khi việc xác định tình tiết giảm nhẹ là một phần quan trọng của quá trình tham vấn và đưa ra quyết định của Tòa án. Các tình tiết này có thể bao gồm những yếu tố như hành vi của người phạm tội, tình trạng gia đình hoặc trình trạng cá nhân của họ, cũng như các tình tiết giảm nhẹ khác. Mặt khác, việc áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt yêu cầu sự cân nhắc kỹ lưỡng của Tòa án.

Ngoài ra, Tại Khoản 2 của Điều 54 trong Bộ Luật Hình sự năm 2015, quy định rằng trong trường hợp Tòa án quyết định áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của luật pháp đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trò không đáng kể. Điều này đã giải quyết các vấn đề vướng mắc và phức tạp trong thực tiễn xét xử của Tòa án đối với những trường hợp như vậy.

Mặt khác, quy định này thể hiện sự nhân đạo và khoan dung của chính sách hình sự, đảm bảo rằng quyết định về hình phạt là phù hợp và tương xứng với hành vi phạm tội. Điều này cũng mang lại sự minh bạch và công bằng trong hệ thống pháp luật, giúp đảm bảo rằng các hình phạt được áp dụng dựa trên sự phân tích cẩn thận của từng trường hợp cụ thể, và không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố không đáng kể trong việc xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, vẫn còn một số luồn quan điểm khác nhau về việc áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Quan điểm thứ nhất cho rằng, để được áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 thì người phạm tội phải thỏa mãn điều kiện của khoản 1 Điều 54 BLHS, tức là có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và phạm tội lần đầu, giúp sức với vai trò không đáng kể.

+ Quan điểm thứ hai lại cho rằng, người phạm tội chỉ cần có 01 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và phạm tội lần đầu, giúp sức với vai trò không đáng kể, vì khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 là hai quy định độc lập, bị cáo sẽ được áp dụng khoản 2 khi thỏa mãn điều kiện do luật định.

2. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

Quy định về hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng được quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự 1999. Điểm mới của Bộ Luật Hình sự mới đã mang lại sự cải tiến đáng kể trong việc quy định về trường hợp đặc biệt tại Khoản 2, đồng thời mở rộng phạm vi áp dụng (không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề) đối với người phạm tội lần đầu có vai trò là người giúp sức và có đóng góp không đáng kể. Điều này cho thấy sự linh hoạt và tính nhân đạo của pháp luật, đồng thời giúp bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân trong quá trình xét xử.

Ngoài ra, quy định mới cũng đã được phân chia rõ ràng thành 3 Khoản, giúp cho việc đọc và nắm bắt nội dung dễ dàng hơn. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu rõ các quy định pháp luật, đồng thời đảm bảo tính truyền đạt nội dung quy phạm một cách rõ ràng và dễ dàng hơn. So với Bộ Luật Hình sự năm 1999, khi mà tất cả nội dung được tập trung vào một đoạn mà không có sự chia tách, việc tách ra thành các Khoản rõ ràng hơn là một bước tiến quan trọng trong việc cải thiện tính minh bạch và truy cập thông tin trong luật pháp.

Quá trình để tuyên một Bản án hình sự rất dài dòng, phức tạp tuy nhiên để dễ hiểu, ta sẽ tạm thành 3 bước.

Bước 1: Định tội (xem bị cáo phạm tội gì)

Bước 2: Định khung hình phạt (xem bị cáo sẽ thuộc khung hình phạt nào của tội đó)

Bước 3: Định lượng hình phạt (xem bị cáo bị phạt ở mức cụ thể là bao nhiêu (tiền, năm tù,…)

Trong 3 bước này thì bước 2 là bước mà chúng ta sẽ quan tâm vì nó có liên quan trực tiếp đến quy định tại Điều luật này, cụ thể: Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Vì vậy, bước đầu tiên cần thực hiện là hiểu rõ về khái niệm “khung hình phạt”. Khung hình phạt có thể được hiểu như một phạm vi, bao gồm một điểm thấp nhất và một điểm cao nhất (tương tự như điểm sàn và điểm trần của khung giá). Nguyên tắc cơ bản là khi khung hình phạt đã được xác định, Tòa án chỉ có thể tuyên án trong phạm vi của khung đó, trừ khi có các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ.

Ví dụ, mỗi tội danh được định khung hình phạt từ 3 đến 7 năm, thì mức án trong trường hợp này sẽ là trung bình cộng giữa điểm thấp nhất và điểm cao nhất, tức là 5 năm. Nếu có nhiều tình tiết tăng nặng, mức án sẽ gần đến điểm cao nhất. Ngược lại, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ, mức án sẽ gần đến điểm sàn (tối thiểu). Tuy nhiên, dù án tăng lên đến điểm trần hay giảm xuống điểm sàn, mức án phải nằm trong phạm vi của khung hình phạt đã xác định, đó là nguyên tắc chung.

Tuy nhiên, tại Điều 54 lại quy định một ngoại lệ, cho phép Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung (tức là dưới điểm sàn). Pháp luật cũng giới hạn chỉ có 2 trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng.

Trường hợp 1: Người phạm tội được áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Có hai điều lưu ý quan trọng trong trường hợp này. Đầu tiên, để áp dụng điều này, cần phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ đã được quy định rõ tại Khoản 1 Điều 51. Mặc dù Khoản 2 Điều 51 cho phép Tòa án mở rộng thêm các tình tiết giảm nhẹ, nhưng những tình tiết này sẽ không được tính vào việc quyết định áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung, mà chỉ được sử dụng để lý giải trong bản án.

Thứ hai, việc áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung chỉ được thực hiện trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn. Điều này đảm bảo rằng quyết định hình phạt không vượt ra khỏi phạm vi các khung hình phạt liền kề nhẹ hơn. Ví dụ, nếu người phạm tội thuộc khung iii) và có hai tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể áp dụng mức hình phạt nằm trong khung ii), nhưng không thể áp dụng mức hình phạt thuộc khung i).

Ví dụ: Điều 173. Tội trộm cắp tài sản có các khung:

i) [Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù 06 tháng – 03 năm]

ii) [Phạt tù 02 – 07 năm]

iii) [Phạt tù 07 – 15 năm]

iv) [Phạt tù 12 – 20 năm]

Giả định Tòa án xác định người phạm tội thuộc khung iii) nhưng do có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 nên Tòa án có sử dụng quy định tại Điều Luật này để tuyên mức án nằm trong khung ii) nhưng không được xuống tới khung i)

Trường hợp 2: Trong trường hợp người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể, một sự thay đổi đáng chú ý đã được thêm vào quy định mới, không chỉ về việc áp dụng quy định mà còn về giới hạn của việc lọt sàn. Cụ thể, trong trường hợp 1, điều quan trọng là việc lọt sàn không còn bắt buộc phải rơi vào khung hình phạt liền kề nhẹ hơn.

Đối tượng mà nhà lập luật hướng đến ở đây là những người đồng phạm với vai trò là người giúp sức, mà bản thân vai trò này đã cho thấy mức độ gây thiệt hại cho xã hội đã ít hơn nhiều so với vai trò chủ mưu, cầm đầu, tổ chức, thực hành. Thêm vào đó, sự giúp sức này đóng góp không đáng kể, tức mức độ gây nguy hiểm cho xã hội đã ít lại càng ít thì sẽ thuộc điều chỉnh của quy định này. Điều này giải thích tại sao việc lọt sàn không bị giới hạn trong khung liền kề nhẹ hơn, và quy định như vậy được xem là khá hợp lý.

Tuy nhiên, có một vấn đề là không phải Điều luật nào cũng có nhiều khung hình phạt hoặc khung hình phạt Tòa án đang định áp dụng đã là khung hình phạt thấp nhất, nên không thể áp dụng cả 2 quy định tại Khoản 1 và Khoản 2. Vì vậy, nhà lập luật đã dự đoán trường hợp này tại Khoản 3, để đảm bảo mức độ linh hoạt và công bằng trong xử lý.

Giả định trường hợp trên xảy ra, Tòa án sẽ có 2 sự lựa chọn: Một là tuyên hình phạt dưới mức thấp nhất của khung, ví dụ khung hình phạt là [03 – 07 năm tù] và đã là khung thấp nhất, thì Tòa có thể tuyên dưới 03 năm hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền … tùy từng trường hợp cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon