19 tháng 5 là một ngày lịch sử đặc biệt của dân tộc Việt Nam, ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, người Cha già kính yêu của nhân dân Việt Nam. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như hành trình vĩ đại của Người trong bài viết dưới đây.
1. Tìm hiểu về vị Lãnh tụ Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, cũng được biết đến với các tên gọi Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Ái Quốc, là một nhà cách mạng, nhà chính trị và nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), trong một gia đình nhà Nho yêu nước, Hồ Chí Minh từ nhỏ đã được tiếp thu truyền thống yêu nước, lòng nhân ái và ý chí đấu tranh cho độc lập tự do.
Trải qua 10 năm sống ở Huế – trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước lúc bấy giờ, Người tiếp xúc với nhiều sách báo Pháp, tiếp thu nền văn hóa mới và tham gia vào các phong trào yêu nước của các sĩ phu. Chính những trải nghiệm này đã nung nấu nên lý tưởng cách mạng và quyết tâm giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp trong Người.
2. Hành trình cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
2.1 Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920
Năm 1911, với hoài bão giải phóng dân tộc, thanh niên Nguyễn Tất Thành đã đặt chân lên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville tại bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn, rời Tổ quốc đi sang Pháp.
Từ năm 1911 đến năm 1917, Người đã đặt chân đến nhiều quốc gia ở châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, tận mắt chứng kiến cảnh sống khổ cực của nhân dân lao động và những tội ác, thủ đoạn tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Người khẳng định rằng nhân dân lao động các nước, trong đó có giai cấp công nhân, đều có chung cảnh ngộ bị bóc lột, áp bức và có thể đoàn kết thành một khối thống nhất để đấu tranh chống lại kẻ thù chung – chủ nghĩa đế quốc và bọn thực dân.
Năm 1919, Người đã cùng với một số nhà yêu nước Việt Nam thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam lấy tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hộ nghị Véc-xây (Versailles) đòi chính phủ Pháp thừa nhận quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là tiếng nói chính nghĩa đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trên đấu trường quốc tế, khẳng định khát vọng độc lập, tự do của dân tộc ta.
Tháng 7/1920, tại Pháp, một sự kiện mang tính bước ngoặt đã diễn ra trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin trên báo L’Humanité (Nhân Đạo), Người đã tìm thấy phương hướng, ánh sáng soi đường cho con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, Nguyễn Ái Quốc – người Việt Nam yêu nước đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người: Từ một người yêu nước, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, khoa học – con đường cách mạng vô sản. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Sự kiện tháng 7/1920 là cột mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặt nền móng cho sự thành công của cách mạng Việt Nam sau này.
2.2 Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930
Năm 1921, mang theo nhiệt huyết yêu nước và tinh thần cách mạng, Người cùng với những nhà hoạt động cách mạng của các thuộc địa Pháp đã thành lập Hội Liên hiệp các thuộc địa và xuất bản báo “Người cùng khổ” (Le Paria). Trong bài Lời kêu gọi đăng ở số báo đầu tiên, Người cũng chỉ ra mục đích của tờ báo là đấu tranh để giải phóng con người. Trong thời gian hoạt động ở Quốc tế Cộng sản, Người chỉ ra tình cảnh của giai cấp công nhân, nông dân nghèo ở các nước thuộc địa đang chết dần vì đói rét, bệnh tật và kêu gọi Quốc tế Cộng sản giúp đỡ họ.
Năm 1925, người đã viết tác phẩm Bản chế độ thực dân Pháp, nhằm tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp, nêu rõ thống khổ và sức mạnh của nhân dân các nước thuộc địa.
Tại Quảng Châu, Người thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội mở lớp huấn luyện, đào tạo trực tiếp cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận cách mạng cho những người yêu nước.
Các bài giảng của Người tại lớp huấn luyện được tổng hợp in thành cuốn “Đường Kách Mệnh” (1927) đề cập nhiều nội dung, nhiều vấn đề trong đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam. Đây là một trong những văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam sau này.
Thông qua báo chí và các hoat động thực tiễn, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào và phong trào yêu nước Việt Nam; Người đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy tinh thần dân tộc, hướng dẫn xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang góp phần tạo ra một phong trào cứu nước mạnh mẽ để đón thời cơ, tiến tới tổng khởi nghĩa giành độc lập, tự do dân tộc.
Năm 1930, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản đã diễn ra, đánh dấu sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện trọng đại này mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc, đưa cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân dân ta bước vào giai đoạn mới với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.
“Cương lĩnh chính trị” do Chủ tịch Hồ Chí Minh dự thảo chính là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng trong những năm đầu. Văn kiện này thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam, xác định rõ đường lối giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng loài người.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Nó đánh dấu bước ngoặt quan trọng, đưa cách mạng Việt Nam đi đúng hướng, tiến tới thắng lợi vẻ vang.
Với vai trò là Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vĩ đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối, phương pháp và tổ chức lãnh đạo cách mạng. Cương lĩnh chính trị do Người đề xướng đã trở thành nền tảng tư tưởng vững chắc dẫn dắt Đảng và nhân dân ta đến thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
2.3 Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945
Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cao trào Cách mạng 1930 – 1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Bên cạnh việc kêu gọi giúp đỡ từ các tổ chức quốc tế, các đảng anh em nhằm động viên, giúp đỡ về vật chất và tinh thần, Người còn ngăn chặn sự đàn áp đẫm máu của bọn Đế quốc, nhờ đó mà Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ca ngợi cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời đánh giá cao công lao to lớn của Người.
Từ năm 1934 đến năm 1938, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại Mátxcơva (Liên Xô). Kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước. Do chiến tranh ngày một ác liệt, Người không thể yên tâm ngồi học mà nóng lòng muốn trở về nước hoạt động. Năm 1938, Người đã gửi thư cho Quốc tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng được về nước.
Trước khi về nước, trong thời gian khi còn hoạt động ở nước ngoài, dù đã từng bị tù đầy trong lao tù đế quốc vượt qua bao khó khăn gian khổ nhưng Người vẫn kiên định thực hiện con đường đã chọn là giải phóng dân tộc. Người vẫn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, vào ngày 28/01/1941, Người trở về Việt Nam sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.
Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối cứu nước trong thời kỳ mới, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18/08/1945, Người viết thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Người viết: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ chế độ phong kiến, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít Nhật. Đây là thắng lợi to lớn của dân tộc vừa là sự kế thừa truyền thống của cha ông ta trong lịch sử, vừa là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành lập nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” và ra mắt Chính phủ lâm thời do Người làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam.
2.4 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969
Ngay sau đó, thực dân Pháp gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Việt Nam một lần nữa. Trước nạn ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc với tinh thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước, cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, từng bước giành thắng lợi.
Tháng 2-1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng nhằm đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Tại Đại hội Người được bầu làm Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi to lớn, kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ Nó đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp và buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (trừ Mỹ) vào ngày 21/7/1954, chấm dứt chiến tranh xâm lược của Pháp ở Việt Nam.
Từ năm 1954, Người cùng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III, họp vào tháng 9 năm 1960, Người khẳng định: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình, thống nhất nước nhà”. Tại Đại hội Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Từ năm 1965 đến tháng 9-1969, cùng với Trung ương Đảng, Người tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng trong điều kiện cả nước có chiến tranh, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.
Ngày 02/09/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qua đời, Người để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc lịch sử, căn dặn những việc nhân dân Việt Nam phải làm để xây dựng đất nước sau chiến tranh. Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Thực hiện Di chúc của Người, toàn dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Pari ngày 27-1-1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.
3. Kỷ niệm 134 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tháng Năm rực rỡ cờ hoa, năm 2024, cả nước đồng lòng hướng về ngày sinh nhật lần thứ 134 của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
55 năm qua kể từ ngày ra đi, hình ảnh Bác Hồ vẫn luôn sống mãi trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Bác là tấm gương sáng về đạo đức, trí tuệ và lòng yêu nước nồng nàn. Bác đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tinh thần yêu nước của Bác chính là nguồn động lực to lớn để chúng ta tiếp tục tiến bước trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi người dân Việt Nam hãy noi gương Bác, ra sức học tập, rèn luyện, cống hiến sức mình cho sự nghiệp chung của dân tộc.
Trên đây là một số thông tin về Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Luật Dương Gia gửi đến bạn đọc. Hy vọng những thông tin này sẽ giúp bạn đọc thêm hiểu biết về vị Cha già dân tộc và chúc bạn đọc có một ngày tràn đầy niềm vui, hạnh phúc.