Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ

khai-quat-ve-quyen-so-huu-tri-tue

Trong tiến trình vận động của đời sống xã hội hiện đại, sự phát triển như vũ bão của KH&CN thế kỷ XXI đã có tác động sâu rộng, mãnh liệt và trực tiếp hơn bao giờ hết với tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế – xã hội, tốc độ gia tăng của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội loài người. Tài sản trí tuệ – tài sản dựa trên tri thức cũng vì vậy mà trở nên đặc biệt quan trọng trong cấu trúc tài sản của mỗi quốc gia và doanh nghiệp, mỗi cá nhân và tổ chức. Bảo hộ SHTT vừa xuất phát từ nhu cầu tự thân của các nền kinh tế trong quá trình phát triển, vừa là một đòi hỏi mang tính toàn cầu, bắt buộc khi tham gia các quan hệ kinh tế quốc tế và hội nhập. Cùng Luật Dương Gia tìm hiểu một cách khái quát quyền sở hữu trí tuệ qua bài viết dưới đây.

1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ

Quyền SHTT có thể được hiểu theo hai phương diện:

  • Phương diện khách quan: Quyền SHTT là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác lập và khai thác, sử dụng và định đoạt các đối tượng
  • Phương diện chủ quan: Quyền SHTT là tập hợp các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các cá nhân, tổ chức là chủ thể của quyền.

2. Đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ

Kết quả nghiên cứu về SHTT trong nước và nước ngoài cho thấy, có nhiều phương pháp và cách thức tiếp cận khác nhau khi phân tích về đặc thù và bản chất của quyền SHTT. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, có thể tóm lược chung các đặc điểm cơ bản nhất của quyền SHTT như sau:

2.1. Đặc điểm về căn cứ phát sinh, xác lập quyền

Quyền SHTT chỉ được coi là hợp pháp khi được phát sinh hoặc xác lập theo đúng các quy định của pháp luật về điều kiện và thời điểm phát sinh quyền. Theo căn cứ phát sinh quyền, pháp luật các nước thường phân định cơ chế điều chỉnh khác nhau đối với hai nhóm quyền SHTT chủ yếu sau:

– Nhóm quyền phát sinh một cách tự nhiên:

  • Quyền SHTT tự động phát sinh hoặc được xác lập cùng với sự ra đời của tài sản trí tuệ (đối tượng SHTT) mà không cần phải tiến hành bất kỳ thủ tục pháp lý nào tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thời điểm phát sinh quyền SHTT đồng thời với thời điểm phát sinh đối tượng SHTT. Khi xảy ra tranh chấp, chủ sở hữu quyền phải tự chứng minh quyền của mình bằng cách đưa ra các chứng cứ về mối liên hệ giữa bản thân và đối tượng quyền.
  • Nhóm quyền SHTT phát sinh một cách tự nhiên, bao gồm: quyền tác giả, quyền liên quan tới quyền tác giả (quyền đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng; tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa) và một số ít các quyền SHCN (quyền đối với tên thương mại, bí mật kinh doanh và nhãn hiệu nổi tiếng).

– Nhóm quyền phát sinh trên cơ sở đăng ký:

  • Quyền SHTT chỉ phát sinh hoặc được xác lập trên cơ sở đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục, trình tự luật định. Ngược lại với nhóm trên, ở đây, quyền SHTT không tự động phát sinh mà theo cơ chế quyền chỉ được trao khi đã tiến hành một số thủ tục pháp lý nhất định. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xem xét đơn đăng ký theo trình tự, thủ tục và tiêu chuẩn do pháp luật về SHTT quy định. Nếu đáp ứng các yêu cầu luật định, chủ thể quyền (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) sẽ được cấp một chứng chỉ (văn bằng bảo hộ) với ý nghĩa thừa nhận, xác nhận tổ chức, cá nhân đó có quyền đối với đối tượng SHTT trong thời hạn và phạm vi tương ứng. Các quyền SHTT đối với các đối tượng SHTT được xác lập theo chứng chỉ (văn bằng bảo hộ) được cấp.
  • Nhóm quyền SHTT phát sinh theo cơ chế này bao gồm phần lớn các quyền SHCN (quyền đối với sáng chế/giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý) và quyền đối với giống cây trồng.

2.2. Đặc điểm về nội dung quyền

– Quyền SHTT là một loại quyền sở hữu nhưng các quyền năng chủ yếu tập trung vào quyền sử dụng và quyền định đoạt

Bản chất của các đối tượng SHTT – tài sản trí tuệ là vô hình, nên việc nắm giữ, quản lý nó là không thể thực hiện được một cách bình thường như các dạng tài sản hữu hình khác. Đặc tính vô hình và chức năng thông tin – tri thức cho phép loại đối tượng SHTT này có khả năng di động một cách không có giới hạn và đồng thời hiện diện ở nhiều nơi nên việc thực hiện quyền năng chiếm hữu dạng tài sản này là không thể và không có ý nghĩa.

– Quyền sử dụng là quyền độc quyền của chủ sở hữu tài sản trí tuệ

  • Trong quyền SHTT, quyền sử dụng các đối tượng SHTT hay tài sản trí tuệ về bản chất được hiểu là quyền độc quyền của chủ sở hữu trong việc sử dụng; đồng thời, cho phép hoặc ngăn cấm người khác sử dụng các đối tượng, tài sản trí tuệ của mình. Tùy thuộc vào bản chất của mỗi loại đối tượng SHTT, nội dung và khái niệm quyền năng sử dụng này cũng chứa đựng các nội hàm khác nhau.
  • Trong lĩnh vực SHCN, việc sử dụng sáng chế có thể bao gồm các hành vi khai thác, ứng dụng vào sản xuất, lưu thông, nhập khẩu sản phẩm được sản xuất theo sáng chế…; việc sử dụng nhãn hiệu có thể gồm các hành vi gắn nhãn hiệu lên sản phẩm, trưng bày, quảng cáo, tàng trữ, bán, nhập khẩu sản phẩm mang nhãn hiệu…

2.3. Đặc điểm về giới hạn quyền

  • Giới hạn về không gian (lãnh thổ) được bảo hộ (chủ thể quyền chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi lãnh thổ nhất định theo quy định của luật quốc gia hoặc các Điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên);
  • Giới hạn về thời hạn được bảo hộ (về nguyên tắc, quyền SHTT được bảo hộ có thời hạn; sau thời hạn bảo hộ, toàn xã hội có thể tiếp cận, khai thác, sử dụng, ứng dụng các tài sản trí tuệ. Từ đó, thúc đẩy và tạo điều kiện cho các hoạt động nghiên cứu sáng tạo khoa học, công nghệ và nghệ thuật mới);
  • Giới hạn bởi quyền hoặc lợi ích chính đáng của người khác (quyền của người sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp; quyền sao chép, trích dẫn hợp lý tác phẩm cho mục đích nghiên cứu, giảng dạy…);
  • Giới hạn bởi lợi ích của cộng đồng (một số đối tượng SHTT không được bảo hộ nếu trái với lợi ích và trật tự xã hội, vi phạm nguyên tắc nhân đạo hoặc phương hại cho quốc phòng, an ninh quốc gia; chủ sở hữu có thể bị buộc phải chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN – li xăng không tự nguyện – để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của xã hội, cộng đồng);
  • Giới hạn bởi các nghĩa vụ mà chủ sở hữu phải thực hiện (nghĩa vụ nộp lệ phí duy trì hiệu lực của văn bằng bảo hộ tài sản trí tuệ).

3. Bản chất của quyền sở hữu trí tuệ

3.1. Quyền Sở hữu trí tuệ mang bản chất của quyền tài sản, đồng thời có sự kết hợp giữa quyền tài sản và quyền nhân thân

Trước hết, cần nhận thức rõ rằng, bản chất của quyền SHTT là các quyền tài sản đối với thành quả của hoạt động sáng tạo dưới dạng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; các sáng chế/giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng;… Về nguyên tắc, đây là các quyền được bảo hộ có thời hạn và có thể chuyển giao cho cá nhân, tổ chức khác; tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng các quyền tài sản này phải xin phép và trả tiền thù lao hoặc các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh các quyền tài sản, quyền SHTT cũng mang tính chất nhân thân. Các quyền nhân thân thực chất là các quyền tinh thần gắn bó mật thiết và không thể tách rời với chính bản thân các tác giả là những người trực tiếp sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ. Quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn và trong một số trường hợp là không thể chuyển giao.

Các quyền nhân thân được hình thành trên cơ sở hoạt động sáng tạo của tác giả và được xác định, tồn tại bởi nhân thân của chính tác giả như đứng tên tác giả trên tác phẩm hoặc văn bằng bảo hộ (quyền được công nhận là tác giả), đặt tên cho tác phẩm, được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn… Chính vì lý do đó, các quyền này về nguyên tắc không thể chuyển giao và tồn tại trong suốt thời gian tác giả sống.

3.2. Quyền Sở hữu trí tuệ mang bản chất độc quyền và có tính phủ định (essentially negative)

Quyền SHTT vận hành chủ yếu dưới dạng một quyền độc quyền trong các thị trường thương mại tự do, đồng thời mang bản chất phủ định (essentially negative): đó là các quyền ngăn cấm người khác thực hiện các hành vi nhất định (ví dụ, ngăn cấm hành vi sao chép lậu, làm hàng giả, hàng nhái,…) và thậm chí trong một số trường hợp ngăn cấm các bên thứ ba, các bên có các ý tưởng sáng tạo tương tự một cách độc lập, không được khai thác các ý tưởng đó mà không được phép của chủ sở hữu quyền.

Trên đây là nội dung khái quát liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Hy vọng bài viết trên cung cấp những kiến thức bổ ích cho bạn.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon