Cấp dưỡng là việc một người đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không chung sống với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng trong cuộc sống hàng ngày. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích nội dung về mức cấp dưỡng.
Căn cứ pháp lý:
– Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
1. Cấp dưỡng là gì?
Cấp dưỡng là việc một người phải đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Nghĩa vụ cấp dưỡng có những đặc điểm sau:
– Thứ nhất, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các chủ thể trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Theo đó, tại khoản 1 Điều 107 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã xác định rõ: “Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này”. Các chủ thể này có thể là thành viên trong gia đình hoặc không phải là thành viên trong gia đình nhưng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
– Thứ hai, quan hệ cấp dưỡng không chỉ là quan hệ nhân thân mà còn mang tính tài sản, song không mang tính đền bù ngang giá. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp một số tiền hoặc tài sản nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho người được cấp dưỡng. Khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, luôn có sự chuyển giao một phần lợi ích nhất định từ phía người cấp dưỡng sang người được cấp dưỡng. Trường hợp bên có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, không thể thực hiện việc cấp dưỡng thì tuy nghĩa vụ cấp dưỡng chưa chấm dứt, nhưng ý nghĩa thực tế của nghĩa vụ này cũng hầu như không có, bởi vì lợi ích tài sản của nghĩa vụ không còn tồn tại.
Quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù ngang giá do yếu tố tình cảm giữa các chủ thể. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện một cách tự nguyện, không tính toán đến giá trị tài sản đã cấp dưỡng, không đòi hỏi người được cấp dưỡng phải hoàn lại một số tiền tương ứng. Do nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ được đặt ra khi có những điều kiện nhất định. Vì vậy, quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù tương đương.
– Thứ ba, nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác. Bên có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể cam kết sẽ dùng nghĩa vụ khác để thay thế, bù trừ nghĩa vụ cấp dưỡng như là bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm. Nghĩa vụ cấp dưỡng này cũng không thể sử dụng làm cơ sở đảm bảo cho những nghĩa vụ khác; đồng thời, chủ thể có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng không thể chuyển giao nghĩa vụ cấp dưỡng cho bất cứ ai. Đây cũng là một đặc trưng xuất phát từ tính chất của quyền nhân thân “…là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”.
– Thứ tư, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh trong điều kiện nhất định. Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ phái sinh, tức là khi quan hệ nuôi dưỡng không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ thì lúc đó quan hệ cấp dưỡng mới xuất hiện. Trong thực tế, không chỉ do người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng không thực hiện nghĩa vụ đó thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới phát sinh.
Bất kỳ thành viên nào trong gia đình cũng có thể rơi vào hoàn cảnh không đầy đủ hoặc thiếu hụt về phương diện nào đó; song chỉ khi người đó có sự thiếu hụt về vật chất, làm ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới đặt ra. Điều này biểu hiện ở chỗ, người đó gặp khó khăn, túng thiếu hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Trong quan hệ cấp dưỡng này, chủ thể không chỉ là thành viên gia đình trong mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng mà còn phải thoả mãn những điều kiện nhất định về độ tuổi, tình trạng nhân thân, tài sản…
– Thứ năm, việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thông qua lương tâm, đạo đức, dư luận xã hội và cả các biện pháp cưỡng chế thi hành. Quan hệ huyết thống là gốc rễ hình thành mối quan hệ gắn bó, khăng khít giữa các thành viên trong gia đình. Khi các thành viên trong gia đình không thể trực tiếp chăm sóc nhau thì họ thực hiện nghĩa vụ thông qua việc cấp dưỡng. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trước hết xuất phát từ ý thức, trách nhiệm của bên thực hiện cấp dưỡng. Pháp luật cũng đã đưa ra các chế tài nhằm xử lý những trường hợp trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, không chỉ trong pháp luật dân sự, Hôn nhân và Gia đình mà còn trong pháp luật hình sự…
2. Mức cấp dưỡng
Mức cấp dưỡng là khoản tiền hoặc tài sản khác mà bên có nghĩa vụ cấp dưỡng chu cấp cho bên được cấp dưỡng để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho bên được cấp dưỡng. Khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thông thường người cấp dưỡng chỉ muốn mình phải cấp dưỡng ở mức thấp nhất, ngược lại người trực tiếp nuôi con thì mong muốn con được cấp dưỡng ở mức cao.
Việc pháp luật xác định nguyên tắc pháp lý để giải quyết mức cấp dưỡng là điều cần thiết để điều chỉnh quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình trên tinh thần đảm bảo sự công bằng, đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích của người cần sự tương trợ, giúp đồ từ những thành viên trong gia đình.
Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì mức cấp dưỡng được quyết định căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Các yếu tố xác định mức cấp dưỡng:
– Một là, thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó.
Trên cơ sở thu nhập, kết hợp với các điều kiện cụ thể khác có thể đánh giá khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Khả năng này về cơ bản phụ thuộc vào thu nhập thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng tức là thu nhập do lao động mà họ có.
Tuy nhiên, khả năng kinh tế của họ còn bao gồm những thu nhập hợp pháp khác nhưng không do lao động của họ làm ra như thu nhập do được thừa kế, trúng xổ số… Những người có công việc ổn định với mức thu nhập theo định kì thì việc xác định mức thu nhập của họ không gặp cản trở; còn trường hợp người cấp dưỡng có mức thu nhập thực tế không ổn định thì mức thu nhập của họ được xác định là mức thu nhập bình quân hàng tháng.
– Hai là, căn cứ vào nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng là những nhu cầu cần thiết nhất, không thể thiếu để đảm bảo cuộc sống của người được cấp dưỡng. Nhu cầu này được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, mặc, ở, học tập, khám chữa bệnh và những nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình.
Trường hợp cấp dưỡng cho con thì tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung chi phí học tập vào việc xác định nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng nhằm đảm bảo hơn quyền lợi của những đứa trẻ và giảm bớt gánh nặng cho người nuôi dưỡng. Đối với từng người con được cấp dưỡng thì nhu cầu thiết yếu của họ là khác nhau bởi phụ thuộc vào lứa tuổi, hoàn cảnh sống, sinh hoạt, học tập, điều kiện sức khỏe của mỗi cá nhân.
Nếu như con chưa thành niên có nhu cầu cao trong việc phát triển thể chất và trí tuệ thì con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình ngoài những nhu cầu về ăn, mặc, ở thông thường còn cần thêm các chi phí cho việc chữa trị, phục hồi chức năng hoặc chi phí mua sắm các thiết bị y tế trợ giúp cho đời sống của họ. Bên cạnh đó, các chi phí cần thiết cho các nhu cầu trên cũng có thể rất khác nhau giữa các vùng miền như giữa nông thôn, miền núi, đô thị, thành phố vì điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi vùng miền là khác nhau.
Vì vậy, không thể áp đặt mức sống ở một nơi cố định cho việc xác định mức sống ở một nơi khác. Để nghĩa vụ cấp dưỡng có tính khả thi, sát với thực tế, bảo đảm tốt nhất lợi ích của người được cấp dưỡng, pháp luật cho phép các bên có thể thoả thuận về mức cấp dưỡng sao cho phù hợp với nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Hai căn cứ xác định mức cấp dưỡng nói trên có mối tương quan với nhau, muốn đưa ra mức cấp dưỡng hợp cần đồng thời xem xét cả hai điều kiện. Dựa vào nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng để xác định khoản chi tiêu cần thiết nhất đủ đảm bảo cuộc sống của một người ở mức cơ bản. Căn cứ vào khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng để định ra khoản trợ cấp đảm bảo tính khả thi. Kết hợp hai điều kiện trên sẽ đưa đến một mức cấp dưỡng thấu tình đạt lý và nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ không đồng thời là gánh nặng.
3. Thay đổi mức cấp dưỡng
Cấp dưỡng là một quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Loại quan hệ pháp luật này cũng giống như các quan hệ pháp luật khác, có thể thay đổi khi có sự hiện diện của các sự kiện pháp lý nào đó. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên cụ thể trong gia đình được xác định có thể dựa trên sự thỏa thuận của người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc theo quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp nghĩa vụ cấp dưỡng này không phải luôn tồn tại cố định theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quyết định của Tòa án. Nghĩa vụ cấp dưỡng có thể thay đổi về mức cấp dưỡng, phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Lý do chính đáng để thay đổi mức cấp dưỡng rất đa dạng, có thể xuất phát từ phía người được cấp dưỡng cũng như từ phía người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng có thể giảm trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác, họ có con từ cuộc hôn nhân sau, những người con từ cuộc hôn nhân sau này sống trong hoàn cảnh túng thiếu hơn nhiều so với người được cấp dưỡng hoặc người có nghĩa vụ cấp dưỡng rơi vào hoàn cảnh bị tàn tật, giảm đáng kể khả năng lao động.
Ngoài ra, mức cấp dưỡng có thể thay đổi khi người được cấp dưỡng có công ăn việc làm, có thu nhập cao hoặc trường hợp người cha hoặc mẹ sống chung với người được cấp dưỡng tăng thu nhập đáng kể mà người mẹ hoặc cha là người có nghĩa vụ cấp dưỡng rơi vào tình trạng khó khăn. túng thiếu. Mức cấp dưỡng có thể tăng thêm khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng tăng thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau hoặc người được cấp dưỡng rơi vào hoàn cảnh khó khăn hơn so với lúc quyết định mức cấp dưỡng như bị ốm đau kéo dài… Việc thay đổi mức cấp dưỡng trên cơ sở có lý do chính đáng, không thể thay đổi một cách tùy ý vì mức cấp dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người được cấp dưỡng.
Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về cách xác định mức cấp dưỡng cho phù hợp. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.