Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã và đang tồn tại trong xã hội nước ta. Việc đấu tranh phòng, chống tội phạm để bảo vệ lợi ích của mình và duy trì trật tự xã hội là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước ta. Bằng việc xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và quy định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm ấy, Bộ luật hình sự đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt kẻ phạm tội và không để oan người vô tội. Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự để xử lý người phạm tội thì giai đoạn quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong quá trình xét xử của Tòa án. Bởi vì mục đích của việc Nhà nước áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là nhằm cải tạo, giáo dục người bị kết ăn trở thành người có ích cho xã hội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Do đó, để đảm bảo quyết định hình phạt đúng đắn, Tòa án phải dựa trên các căn cứ quyết định hình phạt luật định, hãy cùng tìm hiểu về các căn cứ quyết định hình phạt đó qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1. Quy định về căn cứ quyết định hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.
Quyết định hình phạt được hiểu là việc toà án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể, bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung, với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội.
BLHS hiện hành quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau:
Điều 50. Căn cứ quyết định hình phạt
“1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.”
Như vậy, khi quyết định hình phạt, toà án phải dựa vào những căn cứ cụ thể để đảm bảo hình phạt được tuyên là đúng đắn, chặt chẽ, và thống nhất; đồng thời tránh được tình trạng tuỳ tiện trong quyết định hình phạt và đảm bảo đạt được mục đích của hình phạt.
Theo điều Điều 50 của Bộ luật Hình sự hiện hành, các căn cứ quyết định hình phạt gồm: các quy định của BLHS; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS.
2. Các căn cứ quyết định hình phạt
– Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự:
Khi quyết định hình phạt, trước hết toà án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội. Các quy định này nằm ở trong cả Phần Chung và Phần Các tội phạm của BLHS, cụ thể là:
+ Các quy định về các loại hình phạt, gồm có: các quy định về hệ thống hình phạt; các quy định về nội dung, phạm vi, và điều kiện áp dụng từng loại hình phạt.
+ Các quy định liên quan đến quyết định hình phạt, gồm có: các quy định về nguyên tắc xử lý; quy định về mục đích hình phạt; các tình tiết giảm nhẹ TNHS; các tình tiết tăng nặng TNHS ; quyết định hình phạt trong trường hợp nhẹ hơn quy định của bộ luật ; tái phạm và tái phạm nguy hiểm; quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội; tổng hợp hình phạt của nhiều bản án; quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn phạm tội, phạm tội chưa đạt…
+ Các quy định trong Phần Các tội phạm của BLHS về khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung cho từng loại tội. Trên cơ sở các quy định này, toà án sẽ lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể để tuyên cho bị cáo.
Căn cứ “Quy định của BLHS” là căn cứ đầu tiên của hoạt động quyết định hình phạt, là sự bảo đảm để thực hiện nguyên tắc pháp chế của luật hình sự trong chế định quyết định hình phạt. Căn cứ này có tính chủ đạo và là cơ sở để vận dụng đúng đắn các căn cứ quyết định hình phạt còn lại. Chỉ khi nào toà án vận dụng đúng căn cứ “Quy định của BLHS”, thì mới có điều kiện vận dụng đúng các căn cứ kia và hình phạt được tuyên cho bị cáo mới đạt được mục đích.
– Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Căn cứ “Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” là căn cứ thứ hai để quyết định hình phạt, giúp cho toà án có thể tuyên hình phạt cụ thể tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo trên thực tế.
Tính chất và mức độ hậu quả đã gây ra hoặc đe doạ gây ra càng cao thì mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội càng lớn. Để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cần xác định tính chất và mức độ hậu quả nguy hiểm do nó gây ra hoặc đe doạ gây ra cho xã hội thông qua việc xác định tính chất và mức độ thiệt hại đã gây ra và những ảnh hưởng xấu khác mà hành vi phạm tội gián tiếp gây ra.
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được xác định bởi các tình tiết sau đây: Tính chất của quan hệ xã hội (là khách thể của tội phạm) bị xâm hại hoặc đe dọa bị xâm hại; tính chất của hành vi khách quan, trong đó bao gồm cả tính chất của phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội; tính chất và mức độ của hậu quả tội phạm; tính chất và mức độ lỗi; mục đích, động cơ của người có hành vi phạm tội; hoàn cảnh chính trị- xã hội lúc và nơi xảy ra hành vi phạm tội; nhân thân của người có hành vi nguy hiểm cho xã hội; những tình tiết lăng nặng, giảm nhẹ khác.
– Căn cứ vào nhân thân người phạm tội:
Nhân thân người phạm tội là căn cứ thứ ba để toà án vận dụng trong quyết định hình phạt và cũng là căn cứ thể hiện nguyên tắc cá thể hoá hình phạt của luật Hình sự Việt Nam. Trong luật Hình sự Việt nam, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của họ, có thể chia thành 3 nhóm sau:
+ Nhóm những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Đây là những đặc điểm mà khi có ở người phạm tội thì làm tăng hoặc giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Những đặc điểm này được luật quy định thành những tình tiết định khung hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tự thú, thật thà hối cải, lập công chuộc tội…
+ Nhóm những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội phản ảnh khả năng cải tạo giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Đây là những đặc điểm có liên quan đến việc đạt được mục đích của hình phạt. Cần nhắc những đặc điểm này đảm bảo cho Tòa án lựa chọn được hình phạt cụ thể cho người phạm tội sao cho tạo khả năng lớn nhất để đạt được các mục đích của hình phạt. Những đặc điểm thuộc nhóm này bao gồm: Thành phần xã hội, nghề nghiệp, thái độ đối với lao động, thái độ chính trị, điều kiện hoàn cảnh sinh sống của người phạm tội…
+ Nhóm những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội phản ảnh hoàn cảnh đặc biệt của họ. Cân nhắc những đặc điểm thuộc nhóm này khi quyết định hình phạt giúp cho Tòa án lựa chọn được hình phạt cụ thể sao cho hình phạt đó có tính thực tế, tính khả thi, phù hợp với các quy định của luật hình sự và tạo điều kiện, khả năng lớn nhất để đạt được mục đích cải tạo giáo dục họ. Những đặc điểm thuộc nhóm này bao gồm: Những người mắc bệnh hiểm nghèo, người già yếu, phụ nữ có thai hay đang nuôi con nhỏ, là người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn…
– Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết phản ảnh mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm (tăng lên hoặc giảm xuống) trong phạm vi một khung hình phạt của một tội phạm cụ thể. Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không được quy định trong các cấu thành tội phạm cụ thể mà được quy định tại phần chung của Bộ luật hình sự. Tòa án phải căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chính là quy định có tính chất hướng dẫn, bắt buộc để cụ thể hóa một phần khi xem xét, cân nhắc căn cứ thứ hai và thứ ba. Bởi vì các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng là một trong những cơ sở để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, trong số các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có những tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 1 Điều 51 làm cơ sở pháp lý cho toà án khi quyết định hình phạt, và tại khoản 2 Điều 51 còn quy định rằng: “Khi quyết định hình phạt, toà án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ trong bản án”. Cụ thể, các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
+ Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
+ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
+ Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
+ Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
+ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
+ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
+ Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
+ Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
+ Phạm tội do lạc hậu;
+ Người phạm tội là phụ nữ có thai;
+ Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
+ Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
+ Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
+ Người phạm tội tự thú;
+ Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
+ Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
+ Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
+ Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
+ Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Các tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại khoản 1 Điều 52 làm cơ sở pháp lý cho toà án khi quyết định hình phạt. Cụ thể, các tình tiết sau đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
+ Phạm tội có tổ chức;
+ Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
+ Phạm tội có tính chất côn đồ;
+ Phạm tội vì động cơ đê hèn;
+ Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
+ Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;
+ Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
+ Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;
+ Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
+ Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
+ Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Khi xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cần chú ý nếu tình tiết đã là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt thì không xác định đó là tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự nữa.
Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về các căn cứ quyết định hình phạt. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.