Năng lực hành vi dân sự của cá nhân

nang-luc-hanh-vi-dan-su-cua-ca-nhan

Trong quan hệ xã hội, năng lực hành vi dân sự luôn là điều kiện cần để xem xét tính hợp pháp của từng loại giao dịch dân sự. Không phải mọi cá nhân đều có năng lực hành vi dân sự như nhau. Chủ thể nào có quyền thực hiện, xác lập một số giao dịch dân sự nhất định. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân.

Căn cứ pháp lý

Bộ luật Dân sự 2015

Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Cá nhân là chủ thể phổ biến trong các quan hệ pháp luật dân sự. Cá nhân theo quy định pháp luật được hiểu là con người cụ thể, tính từ khi được sinh ra cho đến khi chết đi và tồn tại trong thực tế đời sống xã.

Căn cứ theo Điều 19 Bộ luật dân sự 2015 quy định về “năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.

Như vậy, có thể thấy, kể từ khi một cá nhân sinh ra thì đã làm phát sinh năng lực pháp luật của cá nhân đó. Tuy nhiên, đối với năng lực hành vi dân sự, khi con người đạt đến độ tuổi nhất định, đáp ứng các điều kiện theo quy định pháp luật thì năng lực hành vi dân sự mới xuất hiện. Và không phải bất kì cá nhân nào đều có năng lực hành vi dân sự ngang nhau. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân có thể khác nhau tương ứng với từng trường hợp sau:

1.1. Người thành niên

Tại khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên”. Theo đó, người thành niên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 23 và 24 của Bộ luật này. Trường hợp nếu người thành niên là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hay người thành niên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án thì người đó không thể tự mình xác lập giao dịch dân sự mà cần có người giám hộ hoặc người đại diện (theo pháp luật hoặc theo ủy quyền) để thay mặt họ thực hiện, xác lập giao dịch dân sự.

1.2. Người chưa thành niên

Quy định tại Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”, cụ thể trường hợp:

Người chưa đủ sáu tuổi khi giao dịch dân sự cần có người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.

Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi

Khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Ví dụ trường hợp, A 10 tuổi, tự mình đi mua bút để phục vụ cho việc học tập, thì đây là giao dịch dân sự hợp pháp vì giao dịch này nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, phù hợp với lứa tuổi của A.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi

Những người này có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Hay nói cách khác, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là người có năng lực hành vi dân sự một phần. Cá nhân trong trường hợp này có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật. Khi đó, bằng hành vi của mình, họ có thể tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ nhất định khi tham gia giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của bản thân.

1.3. Người mất năng lực hành vi dân sự

Theo Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”.

Do đó, khi và chỉ khi có quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần thì cá nhân đó mới được coi là người mất năng lực hành vi dân sự, còn khi chưa có quyết định của Tòa án thì không ai bị coi là người mất năng lực hành vi dân sự.

Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

1.4. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Quy định tại Điều 23 Bộ luật này. Đây là điểm mới được bổ sung trong Bộ luật Dân sự 2015 so với các Bộ luật Dân sự trước đây.

Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Người giám hộ có thể đồng thời là người đại diện cho người được giám hộ để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

1.5. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

Theo Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”.

Ngoài ra, Tòa án có thể quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. Và việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.

2. Quyền yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự

Theo Điều 379 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định thì chính người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nhưng không còn ở trong tình trạng đã bị tuyên bố hoặc người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Trường hợp đơn yêu cầu hợp pháp được chấp nhận thì Tòa án tiến hành ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

3. Quyền yêu cầu hủy bỏ giao dịch dân sự

Pháp luật cũng có quy định về việc người đại diện hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố một số giao dịch do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi xác lập, thực hiện mà không có sự đồng ý, thông qua của người đại diện của họ là vô hiệu. Và trong trường hợp này, Tòa án có thể xem xét để chấp nhận yêu cầu của người đại diện này theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Dân sự 2015.

4. Năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân.

Căn cứ theo khoản 2 Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự”.

Người từ đủ mười tám tuổi trở lên

Theo quy định pháp luật, người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì năng lực hành vi tố tụng dân sự của họ được xác định theo quyết định của Tòa án.

Người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự

Những người thuộc trường hợp này thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.

Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi

Đối với trường hợp này thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.

Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ được xác định theo quyết định của Tòa án.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi

Pháp luật quy định những người thuộc trường hợp này có thể tham gia giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình. Họ được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ dân sự đó. Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những  việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự khác của đương sự tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.

Trên đây là nội dung tư vấn về quy định của pháp luật đối với hình thức giao dịch dân sự có điều kiện. Trường hợp cần tư vấn vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số hotline: 19006568 để được hỗ trợ.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon