Năng lực pháp luật của cá nhân

nang-luc-phap-luat-cua-ca-nhan

Năng lực chủ thể của cá nhân trong quan hệ pháp luật dân sự được hình thành bởi hai yếu tố đó là năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Vậy, khái niệm năng lực pháp luật dân sự của các nhân có những đặc điểm, nội dung cụ thể được quy định như thế nào ? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ giúp bạn hiểu hơn về vấn đề trên.

Căn cứ pháp lý

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân

1. Khái niệm và đặc điểm của năng lực pháp luật dân sự của cá nhân

1.1. Khái niệm

Theo Điều 16 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, năng lực pháp luật của cá nhân là “khả năng” cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. “Khả năng” đó chỉ có thể trở thành hiện thực thông qua năng lực hành vi dân sự của cá nhân.

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là tiền đề để cá nhân có thể có các quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật của cá nhân với ý nghĩa là một trong những nội dung không thể thiếu của năng lực chủ thể.

1.2. Đặc điểm của năng lực pháp luật của cá nhân

Thứ nhất, do Nhà nước quy định cho cá nhân trong các văn bản quy phạm pháp luật dân sự.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nguồn của pháp luật nói chung, nguồn của luật dân sự nói riêng là các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định. Như vậy, các quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự được coi là nguồn của Luật dân sự. Là nguồn chủ yếu của luật dân sự, Bộ luật dân sự 2015 quy định phạm vi các quyền và nghĩa vụ dân sự của cá nhân rất rộng, bao gồm các quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ quan hệ tài sản (sở hữu, nghĩa vụ hợp đồng…), quan hệ nhân thân (quyền nhân thân, quyền sở hữu trí tuệ).

Thứ hai, mang tính giai cấp sâu sắc, phụ thuộc vào chế độ chính trị, bản chất Nhà nước:

Cùng với sự phát triển của lịch sử, pháp luật của các quốc gia đều quy định về năng lực pháp luật cho cá nhân. Mỗi quốc gia khác nhau sẽ quy định năng lực pháp luật dân sự cho cá nhân một cách khác nhau, phụ thuộc vào chế độ chính trị, bản chất giai cấp, điều kiện kinh tế – xã hội, phong tục, tập quán,…Ví dụ pháp luật Việt Nam thời phong kiến có quy định, phụ nữ đi lấy chồng không có quyền sở hữu đối với tài sản của gia đình. Tuy nhiên, đối với pháp luật Việt Nam hiện hành, vợ, chồng là đồng chủ sở hữu đối với khối tài sản chung của vợ, chồng, nhưng đồng thời vợ, chồng cũng có quyền có tài sản riêng.

Thứ ba, năng lực pháp luật của cá nhân là bình đẳng giữa mọi cá nhân.

Khoản 2 Điều 16 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau”. Như vậy, các cá nhân khác nhau không phân biệt các mức độ năng lực hành vi dân sự, không phân biệt giới tính, độ tuổi, thành phần tôn giáo… đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Tuy nhiên, năng lực pháp luật dân sự chỉ là khả năng mà pháp luật cho phép cá nhân hưởng các quyền dân sự và thực hiện các nghĩa vụ dân sự, do đó, để các quyền và nghĩa vụ này trở thành hiện thực thì phải thông qua năng lực hành vi dân sự của cá nhân.

Mặc dù pháp luật quy định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là bình đẳng nhưng không phải bất cứ cá nhân nào cũng có thể bằng hành vi của mình để hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự do Nhà nước quy định. Trong một số trường hợp, nếu cá nhân không thực hiện được các quyền và nghĩa vụ do Nhà nước quy định thì họ có thể xác lập các quan hệ dân sự để hưởng các quyền dân sự, thực hiện các nghĩa vụ dân sự do Nhà nước quy định thông qua hành vi của người đại diện.

Thứ tư, năng lực pháp luật của cá nhân không thể bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định:

Điều 18 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Không hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân cũng chính là sự thể hiện phần nào nội dung năng lực pháp luật của cá nhân là bình đẳng và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Nhà nước ghi nhận cho cá nhân có năng lực hưởng quyền dân sự và thực hiện nghĩa vụ dân sự và bảo đảm cho khả năng hưởng quyền cũng như khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của cá nhân không thể bị hạn chế.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có thể bị hạn chế. Việc hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chỉ mang tính tạm thời, được áp dụng đối với một số chủ thể nhất định, trong một số giai đoạn và ở một số địa bàn cụ thể:

Hạn chế năng lực pháp luật dân sự được áp dụng đối với một số chủ thể nhất định: Một số chủ thể chịu sự hạn chế về năng lực pháp luật theo quy định của Nhà nước. Ví dụ như theo khoản 2 Điều 205 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị”. Tuy nhiên theo quy định của Hiến pháp, Bộ luật dân sự,… thì cá nhân không có quyền sở hữu đối với đất đai mà chỉ có quyền sử dụng đất,… Vì đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.

Hạn chế năng lực pháp luật dân sự được áp dụng đối với cá nhân trong một số giai đoạn nhất định. Ví dụ như một người phạm tội có thể bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc cấm đảm nhiệm những chức vụ, cấm làm những nghề nhất định trong một thời hạn.

Hạn chế năng lực pháp luật dân sự được áp dụng đối với cá nhân ở một số địa bàn cụ thể: Phụ thuộc vào điều kiện kinh thế, chính trị, văn hóa – xã hội mà pháp luật hạn chế năng lực pháp luật của cá nhân ở một số địa bàn nhất định.

Việc hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không phải là mang tính vĩnh viễn mà chỉ mang tính tạm thời. Qua một giai đoạn nhất định, nếu xét thấy cần thiết thì việc hạn chế này có thể được thay đổi. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do ý chí giai cấp cầm quyền tạo ra cho các cá nhân sống trong một xã hội nhất định và chỉ có Nhà nước mới có quyền hạn chế, tước bỏ những quyền đã trao cho các cá nhân đó. Theo đó, không một cá nhân nào có thể dùng ý chí của riêng mình để tước bỏ quyền dân sự của cá nhân khác hoặc chính bản thân cá nhân cũng không được quyền thỏa thuận với các cá nhân, chủ thể khác để hạn chế hành vi dân sự của mình.

2. Thời điểm bắt đầu và chấm dứt năng lực pháp luật dân sự

Khoản 3 Điều 16 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”. Như vậy, thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khi họ được sinh ra và thời điểm chấm dứt là khi người đó chết đi.

3. Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân

Nội dung này là tổng hợp các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự mà pháp luật quy định cho cá nhân. Theo đó, cá nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự sau:

– Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản

+ Quyền nhân thân không gắn với tài sản của cá nhân được quy định từ Điều 25 đến Điều 39 BLDS 2015. Các quyền nhân thân được ghi nhận trong BLDS 2015 là cơ sở pháp lý cho cá nhân thực hiện quyền của mình đồng thời là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân khi các quyền đó bị xâm phạm. Trên cơ sở quy định về quyền nhân thân của cá nhân, BLDS 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan đưa ra các quy định về bảo vệ quyền nhân thân trong một số trường hợp cụ thể. Ví dụ: Điều 584, 592 BLDS 2015 quy định người có hành vi xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân phải bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm của mình gây ra.

+ Quyền nhân thân gắn với tài sản được hiểu trên cơ sở quyền nhân thân của mình, cá nhân có được lợi ích vật chất (tài sản) thông qua việc khai thác các giá trị tinh thần đó. Chẳng hạn, tác giả, chủ sở hữu các tác phẩm là đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ và các chủ thể khác (nhà đầu tư,…) có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với các tác phẩm đó.

– Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản:

+ Cá nhân có quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình và pháp luật tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu tài sản đối với cá nhân. Tài sản thuộc sở hữu của cá nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị, miễn là các tài sản đó được xác lập quyền sở hữu dựa trên các căn cứ pháp lý do pháp luật quy định. Mặc dù quyền sở hữu tài sản là năng lực pháp luật của cá nhân trong việc hưởng quyền. Tuy nhiên: “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (khoản 2 Điều 206 BLDS 2015). Theo đó, khi cá nhân thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thì một trong những nguyên tắc chung là: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (khoản 4 Điều 3 BLDS 2015).

+ Cá nhân có quyền để lại tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình cho những người thừa kế sau khi mình qua đời. Đồng thời với việc để lại di sản thừa kế, cá nhân có quyền hưởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Khi hưởng di sản thừa kế do người chết để lại, cá nhân có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại tương ứng với phần di sản mà mình được hưởng.

– Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó:

Cá nhân có quyền tham gia các quan hệ nghĩa vụ, các hợp đồng dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự đó. Có những quan hệ nghĩa vụ mà khi cá nhân tham gia thì cá nhân chỉ có quyền mà không có bất kỳ nghĩa vụ nào (trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường), nhưng có những quan hệ nghĩa vụ thì đồng thời với việc hưởng quyền cá nhân cũng phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh (bên bán vừa có quyền yêu cầu bên mua trả tiền, vừa có nghĩa vụ phải giao vật cho bên mua…).

Trên đây là nội dung liên quan đến “Năng lực pháp luật của cá nhân”. Nếu có bất cứ thắc mắc nào xin vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số hotline 19006568 để được tư vấn và hỗ trợ!

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon