Kỹ năng kiểm sát phát hiện, tổng hợp vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự về sở hữu, trật tự xã hội

mot-so-kinh-nghiem-trong-cong-tac-phat-hien-tong-hop-vi-pham-to-tung-trong-hoat-dong-dieu-tra-cac-vu-an-hinh-su-ve-so-huu-trat-tu-xa-hoi

Nhằm thực hiện quan điểm, chủ trương cải cách tư pháp của Đảng về “tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự thể hiện quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không ngừng được hoàn thiện, đặc biệt là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều quy định mới nhằm đổi mới mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát theo hướng thiết thực, hiệu quả, tăng cường quan hệ phối hợp nhưng phân công chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, rành mạch và có sự kiểm tra, chế ước nhau trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.

Từ thực trạng và ý nghĩa cấp thiết thông qua mối quan hệ trên, đề tài “Một số kinh nghiệm trong công tác phát hiện, tổng hợp vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự về sở hữu, trật tự xã hội” sẽ đi sâu vào nghiên cứu, đồng thời nêu lên những thực trạng và giải pháp cần thiết.

Cơ sở khoa học hoặc lý luận

– Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

– Điều 3, 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

– Điều 20, 165, 166 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

– Quy chế tạm thời công tác Thực hành quyền công tố và Kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC, ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

1. Thực trạng vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự

1.1. Thực trạng

Trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự nói chung và các tội phạm về chương xâm phạm sở hữu nói riêng, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra, Toà án nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời, không để bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhâm phẩm một cách trái pháp luật. Đồng thời bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; kịp thời phát hiện, khắc phục và xử lý những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, xét xử.

Trong quá trình kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra; đối với các hoạt động điều tra bắt buộc phải có sự tham gia của Viện kiểm sát, khi nhận được thông báo của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải kịp thời cử kiểm sát viên có mặt để kiểm sát hoạt động điều tra; thông báo kịp thời ban hành các quyết định, yêu cầu bảo đảm cho hoạt động điều tra được tiến hành một cách khẩn trương, đầy đủ, chính xác; kiểm tra các thủ tục tố tụng để phát hiện vi phạm và yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục, bổ sung. Chính vì tầm quan trọng của chức năng, nhiệm vụ này, mà trách nhiệm của Kiểm sát viên trong từng giai đoạn tố tụng luôn phải được đề cao, kịp thời phát hiện các vi phạm để yêu cầu Cơ quan điều tra phải bổ sung một cách đầy đủ, chặt chẽ. Qua nghiên cứu và kiểm sát hoạt động điều tra một số vụ án hình sự, bản thân đã nghiên cứu và tổng hợp một số dạng vi phạm tố tụng cụ thể sau:

– Việc tiến hành các hoạt động điều tra như lấy lời khai, yêu cầu bị can, người liên quan viết bản tự khai có biểu hiện vi phạm tố tụng: Nhiều biên bản hỏi cung, biên bản ghi lời khai với nội dung giống như nhau, có dấu hiệu của việc mớm cung, không khách quan, làm mất đi giá trị chứng cứ chứng minh của các tài liệu này; nhiều bản tự khai bị can không có chữ ký xác nhận của Điều tra viên (vi phạm Điều 133 Bộ luật tố tụng hình sự); biên bản lấy lời khai người báo tin tố giác, tin báo về tội phạm, người làm chứng không phải do Điều tra viên tiến hành mà do cán bộ giúp việc điều tra thực hiện (vi phạm Điều 37, Điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự); một số tài liệu, số bút lục bị tẩy xóa, đánh đi đánh lại nhiều lần (vi phạm quy định tại mục 20.2 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT ngày 07/9/2005 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc phòng).

– Trong một số vụ việc liên quan đến công tác khám nghiệm hiện trường, đặc biệt là các vụ án liên quan đến vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, vẫn còn tình trạng biên bản khám nghiệm hiện trường thiếu chữ ký của người chứng kiến. Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự, khi khám nghiệm hiện trường phải có người chứng kiến. Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về những người không được làm người chứng kiến, tuy nhiên vẫn có một số trường hợp Cơ quan điều tra khi tiến hành các hoạt động nghiệp vụ vẫn còn vi phạm.

– Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định mới về chức danh Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra, được cấp thẻ chứng nhận, số thẻ…được quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm tại Điều 38 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, một số cán bộ chưa được bổ nhiệm chức danh Cán bộ điều tra nhưng vẫn thực hiện nhiệm vụ của Cán bộ điều tra, vẫn ký vào biên bản ghi lời khai, giúp Điều tra viên ghi biên bản hỏi cung…

– Tại Điều 154 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ căn cứ khởi tố, điều, khoản của Bộ luật hình sự và các nội dung được quy định trong văn bản tố tụng. Tuy nhiên, vẫn còn trường hợp một số vụ án Quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra chỉ khởi tố theo điều luật mà không ghi khoản cụ thể.

– Có trường hợp quá trình điều tra, truy tố vụ án hình sự, bị can được giải thích quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, khai báo rõ ràng, tuy nhiên Điều tra viên không hỏi rõ về tình trạng sức khỏe, có tiền sử bệnh lý hay tâm thần gì không dẫn đến thiếu sót. Quá trình xét xử vụ án lại phát sinh tình tiết bị can có tiền sử bệnh lý, bị hạn chế năng lực hành vi khi thực hiện hành vi phạm tội, dẫn đến phải trả hồ sơ điều tra bổ sung để yêu cầu người bào chữa cho bị can, bị cáo.

– Vi phạm trong việc sử dụng, đánh giá chứng cứ dẫn đến xác định sai tội danh: Điển hình là các vụ Cố ý gây thương tích nhưng hành vi khách quan thỏa mãn dấu hiệu của tội Giết người, một số vụ án Cơ quan điều tra tiến hành điều tra vụ án, có tỷ lệ thương tích không lớn, tuy nhiên Điều tra viên đánh giá không đúng tính chất mức độ, hành vi mà đối tượng thực hiện như: dùng búa đánh 01 cái vào đầu gây thương tích với tỷ lệ thấp, hoặc không nghiên cứu kỹ bản kết luận giám định pháp y về thương tích nhằm xác định rõ việc đối tượng có cố ý thực hiện đến cùng, mang tính chất triệt hạ đối phương hay không mà vội vàng khẳng định các đối tượng chỉ phạm tội Cố ý gây thương tích chứ không phải Giết người.

– Đối với vụ việc đánh nhau: giữa Tóm tắt bệnh án ban đầu tại bệnh viện với Kết luận giám định pháp y về thương tích qua giám định có sự mâu thuẫn với nhau về vị trí tác động, dập não ở thùy trán được thể hiện trong tóm tắt bệnh án nhưng trong kết luận giám định không thể hiện, mà chỉ nêu dấu vết chính qua giám định. Tuy nhiên Cơ quan điều tra không yêu cầu cơ quan giám định giải thích cơ chế. Phải đến khi Kiểm sát viên phát hiện và yêu cầu thì mới thực hiện.

– Việc lấy lời khai người làm chứng là người chưa thành niên vẫn còn xảy ra tình trạng khi lấy lời khai, cơ quan tiến hành tố tụng không mời cha mẹ, người đỡ đầu, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy cô giáo của người đó tham dự theo quy định tại Điều 15 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT ngày 12/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên.

1.2. Đánh giá

Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, điển hình trong những năm vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu với tinh thần trách nhiệm và quyết tâm cao cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát kịp thời Lãnh đạo Viện, đơn vị đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ công tác đề ra, thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử những vụ án hình sự về các tội xâm pham phạm sở hữu, trật tự xã hội đạt được những kết quả nhất định. Qua việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm sát đã ban hành nhiều kiến nghị, kháng nghị được chấp nhận. Từ năm 2014 đến nay, Viện kiểm sát đã ban hành 09 kiến nghị đối với Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm, riêng 09 tháng đầu năm 2018, đơn vị đã ban hành 02 kiến nghị đối với Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm tố tụng trong tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, ban hành 01 kiến nghị đối với Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm trong hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự và được Cơ quan điều tra chấp nhận, đặc biệt là trong giai đoạn mới triển khai và áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 vẫn còn có nhiều khó khăn, vướng mắc. Tuy nhiên, việc tăng cường phát hiện vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra vụ án hình sự sẽ góp phần khắc phục được những vi phạm, nâng cao hơn nữa chất lượng nghiên cứu các quy định pháp luật để các cơ quan tố tụng áp dụng một cách thống nhất, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế để cùng nhau tháo gỡ, khắc phục.

2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra hiện nay

– Điều tra viên chưa nghiên cứu kỹ các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn chưa chính xác.

– Một số quy định trong các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện đã được cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự, thậm chí có một số thay đổi so với trước đây, tuy nhiên cán bộ áp dụng vẫn xử lý vụ việc theo lối mòn của pháp luật trước đây mà không nghiên cứu những điểm mới trong quy định của luật dẫn đến vi phạm tố tụng.

– Hiện nay pháp luật tố tụng hình sự giao cho cơ quan điều tra nhiều quyền hạn. Trong khi đó Kiểm sát viên lại không phát huy hết vai trò của mình trong việc kiểm sát việc tuân thủ đúng pháp luật, mà Kiểm sát viên không kiểm sát chặt chẽ quá trình điều tra của Điều tra viên trong hoạt động điều tra, giải quyết vụ án là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc vi phạm tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng.

– Việc phân công một số cán bộ, Điều tra viên thụ lý vụ án chưa phù hợp với năng lực, trình độ và kinh nghiệm trong việc giải quyết một số vụ án hình sự phức tạp, nên dẫn đến nhiều vi phạm.

– Quan hệ phối hợp giữa điều tra viên, kiểm sát viên thụ lý vụ án chưa chặt chẽ, chưa tích cực trong việc điều tra thu thập chứng cứ, thỏa mãn với những chứng cứ tài liệu đã thu thập được.

– Trước khi kết thúc điều tra vụ án, Kiểm sát viên và Điều tra viên không trao đổi, đánh giá việc thu thập tài liệu, chứng cứ, thủ tục tố tụng để phát hiện những vấn đề còn thiếu để yêu cầu Điều tra viên bổ sung, do đó xảy ra việc khi ra quyết định truy tố hoặc chuyển hồ sơ sang tòa án để xét xử mới phát hiện thiếu sót, vi phạm.

– Một số quy định của luật còn chung chung, không rõ ràng, một số hành vi khách quan của điều luật chưa mang tính bao hàm, chưa được thể hiện rõ, chưa bao quát được các tình huống trong thực tế, trong khi đó vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể để áp dụng hoặc có hướng dẫn thì lại mâu thuẩn gây khó khăn dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, áp dụng không thống nhất.

3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phát hiện vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra

– Kiểm sát viên phải kiểm sát kỹ nội dung, hình thức, thẩm quyền ban hành văn bản tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, đặc biệt là các quyết định tố tụng, thẩm quyền ban hành theo đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mỗi chức danh để hạn chế việc ban hành các quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;

– Xây dựng kế hoạch, lập sổ theo dõi quá trình kiểm sát điều tra đối với các vụ việc được phân công thụ lý ngay từ giai đoạn kiểm sát tin báo, nắm vững các loại thời hạn được quy định trong bộ luật tố tụng như thời hạn giải quyết, thời hạn cơ quan điều tra phải chuyển văn bản đề nghị gia hạn…và đặc biệt là căn cứ để Cơ quan điều tra ban hành quyết định giải quyết cuối cùng có đúng hay không.

– Kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra trong từng giai đoạn cụ thể, chú trọng trong thời hạn giải quyết, Điều tra viên có tiến hành các hoạt động tố tụng nào không, nếu trong thời gian dài mà Điều tra viên không tiến hành hoạt động tố tụng như lấy lời khai, xác minh…mà đề nghị gia hạn giải quyết, cần có sự chấn chỉnh và kiên quyết không gia hạn.

– Kiểm sát việc chuyển giao hồ sơ, giao nhận các văn bản tố tụng trong giai đoạn điều tra: Đây là một trong những tài liệu quan trọng nhằm xác định được những tài liệu nào mới phát sinh, có tuân thủ quy định tại Điều 88 Bộ luật Tố tụng Hình sự hay không về thời hạn chuyển tài liệu, biên bản cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ liên quan đến vụ án, cần phải đóng dấu bút lục ngay và ghi đầy đủ thông tin để xác nhận các ngày nhận tài liệu, trên cơ sở đó kịp thời có văn bản kiến nghị khắc phục vi phạm nếu Cơ quan điều tra chậm chuyển các tài liệu, chứng cứ quan trọng mới thu thập trong vụ án.

– Kiểm sát việc thu thập chứng cứ, giám định, định giá: Việc thu thập chứng cứ phải đúng quy định, khi kiểm sát cần phải đánh giá được chứng cứ nào là chứng cứ quan trọng, có thu thập đúng quy định hay không. Đối với công tác giám định, định giá cần phải tuân thủ đúng quy định tại các Điều 206, 208, 215 và 216 của Bộ luật Tố tụng hình sự, trong trường hợp có vi phạm về thời hạn giám định, định giá cần phải phát hiện và tập hợp ngay để yêu cầu cơ quan có liên quan khắc phục vi phạm.

– Đề ra yêu cầu điều tra có chất lượng, đây là nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, việc đề ra yêu cầu điều tra là rất cần thiết, không những hỗ trợ cho nhau giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên trong việc định hướng giải quyết vụ án, mà còn thể hiện vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát điều tra. Trong trường hợp đã yêu cầu điều tra nhưng Điều tra viên vẫn chưa thực hiện, Kiểm sát viên cần tiếp tục có văn bản đôn đốc để thực hiện triệt để, tránh tình trạng đã đề ra yêu cầu điều tra nhưng Kiểm sát viên không theo dõi, bám sát, đôn đốc việc thực hiện của Cơ quan điều tra, dẫn đến không phát hiện được những thiếu sót nghiêm trọng, là nguyên nhân dẫn đến phải trả hồ sơ điều tra bổ sung…

– Quá trình kiểm sát điều tra kiểm sát viên phải luôn bám sát quá trình điều tra. Đặc biệt Kiểm sát viên nên tham gia cùng với Điều tra viên hỏi cung bị can ít nhất một lần trong quá trình điều tra để nắm sát nội dung vụ án, tránh oan sai, tránh việc bức cung, mớm cung, nhục hình và điều đó cũng góp phần củng cố chứng cứ có được sử dụng để tranh luận tại Toà án. Đối với việc bắt khẩn cấp trong một số trường hợp, Kiểm sát viên cũng cần thiết phải tham gia lấy lời khai đối tượng cùng với Điều tra viên để đảm bảo cho việc phê chuẩn, hoặc không phê chuẩn bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ (có thể trong trường hợp đối tượng có tiền sử bệnh tâm thần) để tránh vi phạm tố tụng, tránh oan, sai.

– Tổng hợp và đề xuất xử lý vi phạm tố tụng: Khi giải quyết từng vụ án, từng nguồn tin về tội phạm, Kiểm sát viên cần phải chủ động nghiên cứu, đề xuất những trường hợp vi phạm tố tụng của Cơ quan điều tra trong báo cáo đề xuất để Lãnh đạo Viện thông qua. Sau đó, tổng hợp các dạng vi phạm cụ thể, vi phạm mang tính thường xuyên để báo cáo Lãnh đạo Viện ban hành kiến nghị khắc phục vi phạm.

4. Kết luận

Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là rất quan trọng và cần thiết, được quy định cụ thể, rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác. Quyền kháng nghị, kiến nghị theo quy định của pháp luật là quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự mà Viện kiểm sát được giao thực hiện nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án của cơ quan tố tụng cũng như yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan có biện pháp khắc phục vi phạm, phòng ngừa tội phạm.

Việc áp dụng giải pháp này giúp ích được nhiều trong công tác kiểm sát việc giải quyết án hình sự, đặc biệt là trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu và trật tự an toàn xã hội. Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát, phát hiện vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra, nhằm nâng cao vị thế, vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát, đồng thời đảm bảo giải quyết các vụ án hình sự tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon