Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người.
Do đó, quyền con người đòi hỏi cách tiếp cận và nghiên cứu đa ngành, đặc biệt là trong lĩnh vực luật học. Vậy, lý luận và pháp luật về quyền con người được thể hiện như thế nào? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
1. Bối cảnh, ý nghĩa và tầm quan trọng của giáo dục và nghiên cứu quyền con người
Hiểu biết về quyền là điều kiện đầu tiên, không thể thiếu để có thể bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thực tiễn một cách hiệu quả. Mọi tri thức về các phương diện pháp lý, triết học, văn hóa, xã hội.. của các quyền và tự do cơ bản đều rất cần thiết cho việc hiện thực hóa các quyền.
Tuy nhiên, có một thực trạng phổ biến đáng buồn đó là “có hàng triệu người sinh ra rồi chết đi mà không hề biết rằng họ là chủ thể của các quyền con người…”.
Chính bởi tầm quan trọng và vai trò của giáo dục trong việc phổ biến tri thức về quyền con người, trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, Liên hợp quốc đã khẳng định rằng, một trong các mục tiêu của giáo dục là phải nhằm: “…thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người” (Điều 26(2)). Bên cạnh đó, giáo dục quyền con người còn được đề cao trong nhiều văn kiện quốc tế khác của Liên hợp quốc như Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (Điều 13(1)), Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (Điều 29(1,b)) và đặc biệt là trong Tuyên bố Viên và Chương trình hành động được thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tổ chức tại Viên (Áo) năm 1993 (các đoạn 78-82).
Mặc dù không có định nghĩa chung, song qua các văn kiện quốc tế kể trên, có thể hiểu giáo dục quyền con người (human rights education) theo nghĩa rộng, đó là những hoạt động giảng dạy, tập huấn và phổ biến thông tin về quyền con người.
Trên thực tế, các quyền con người đã được giảng dạy thông qua nhiều môn học, ở nhiều cấp học tại Việt Nam, đặc biệt kể từ Đổi mới (1986) đến nay. Cụ thể, ở các cấp phổ thông, một số nguyên tắc và tiêu chuẩn về quyền con người trong luật quốc tế đã được lồng ghép vào các môn học Đạo đức (cấp tiểu học) và Giáo dục công dân (các cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông). Trong giáo dục bậc cao, vấn đề quyền con người hiện đã được nghiên cứu, giảng dạy ở một số trường đại học chuyên ngành luật, khoa học chính trị, quan hệ quốc tế…
Trong những năm gần đây, các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người ở Việt Nam đang phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng và bề sâu. Hiện tại, Bộ Giáo dục-Đào tạo đang nghiên cứu xây dựng chương trình giáo dục về quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân; còn ở giáo dục bậc cao, ngày càng có thêm nhiều trường đại học, viện nghiên cứu đưa vào triển khai các chương trình, hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người dưới nhiều hình thức tổ chức và nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Sự phát triển đó nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội trong việc tìm hiểu về quyền con người, xuất phát từ thực tế là vấn đề quyền con người đang được ứng dụng và có ảnh hưởng ngày càng lớn đến nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội của Việt Nam.
2. Mục tiêu của môn học
Mục tiêu của môn học là nhằm xây dựng một nền văn hóa nhân quyền (human rights culture) mà nền tảng của nó chính là những nguyên tắc đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948.
Về những mục tiêu cụ thể, theo Liên hợp quốc, giáo dục quyền con người cần hướng vào việc:
- Tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người;
- Phát triển đầy đủ nhân phẩm và ý thức về nhân phẩm của con người;
- Thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tình hữu nghị giữa các quốc gia, các nhóm dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ;
- Tạo điều kiện cho tất cả mọi người tham gia một cách hiệu quả vào các hoạt động của xã hội, và
- Hỗ trợ các hoạt động của Liên hợp quốc về duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
3. Đối tượng và nội dung của môn học
Về đối tượng, môn học này tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về các quyền và việc bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người, cả ở phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Về nội dung, giống như nhiều chương trình giảng dạy về quyền con người đang được thực hiện trên thế giới, môn học này đề cập đến những vấn đề cơ bản như sau:
- Khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền con người;
- Lịch sử phát triển của tư tưởng về quyền con người;
- Các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế (toàn cầu và khu vực) về quyền con người;
- Các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy bảo vệ quyền con người (ở cấp độ toàn cầu và khu vực);
- Bên cạnh đó, môn học còn bao gồm một số chuyên đề đề cập đến:
- Nhận thức và lịch sử phát triển về quyền con người ở Việt Nam;
- Pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam;
4. Phương pháp luận
Là một môn khoa học xã hội, việc nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người cũng vận dụng phương pháp luận chung của các chuyên ngành khoa học xã hội nhưng có những đặc thù nhất định khi áp dụng.
Cụ thể, môn học này áp dụng các phương pháp luận của triết học biện chứng duy vật (phương pháp luận nền tảng của các bộ môn khoa học xã hội ở Việt Nam). Bên cạnh phương pháp luận triết học biện chứng duy vật đang áp dụng ở Việt Nam, một số học thuyết, lý thuyết xã hội (social theories) khác cũng được đề cập khi nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người, trong đó tiêu biểu như thuyết duy lý (rationalism), thuyết cấu trúc (structuralism), thuyết văn hóa (culturalism), thuyết tự do (liberalism)…
5. Nguồn tư liệu
Do có tính chất đa ngành, liên ngành nên nguồn tư liệu để nghiên cứu và giáo dục về quyền con người rất phong phú. Tuy nhiên, tương ứng với các mảng nội dung lớn là lý luận, pháp luật và thực tiễn về quyền con người, có ba loại nguồn cơ bản được sử dụng khi nghiên cứu và giảng dạy môn học này:
Thứ nhất, các học thuyết, lý thuyết triết học, luật học, xã hội học, đạo đức học…chứa đựng những tư tưởng, quan điểm về quyền con người. Những học thuyết, lý thuyết này được thể hiện trong tác phẩm của các nhà tư tưởng nổi tiếng của nhân loại, ngoài ra cũng được thể hiện trong kinh sách, giáo lý của các tôn giáo lớn hoặc trong các thư tịch cổ. Đây là những nguồn chính để nghiên cứu và giảng dạy về những vấn đề lý luận về quyền con người.
Thứ hai, những văn kiện pháp luật do các tổ chức quốc tế toàn cầu và khu vực (đặc biệt là Liên hợp quốc) và các quốc gia ban hành trong đó chứa đựng những quy phạm pháp luật về quyền con người. Đây là những nguồn chính để nghiên cứu và giảng dạy về những vấn đề pháp lý về quyền con người ở các cấp độ khác nhau.
Thứ ba, những báo cáo, thống kê, nghiên cứu…về tình hình bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên thế giới do các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, các chính phủ, tổ chức phi chính phủ, các nhóm cộng đồng, các tòa án và các chuyên gia biên soạn và công bố. Đây là những nguồn chính để nghiên cứu và giảng dạy về những vấn đề thực tiễn về quyền con người.
6. Tính chất đa ngành, liên ngành trong nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người
Như đã đề cập, quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó, việc nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người đòi hỏi cách tiếp cận đa ngành, liên ngành. Hiện tại không chỉ có các ngành khoa học xã hội mà cả các ngành khoa học tự nhiên cũng bắt đầu tiếp cận quyền con người dưới các góc độ, mức độ khác nhau. Mặc dù vậy, các ngành khoa học xã hội dưới đây có liên quan chặt chẽ hơn cả đến nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người.
Luật học:
Cho đến gần đây, việc nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người trên thế giới cũng như ở Việt Nam phần lớn từ góc độ luật học. Các cuộc tranh luận về quyền con người cũng chủ yếu liên quan đến pháp luật. Điều đó củng cố nhận định về tính chất chi phối của tiếp cận luật học trong khoa học về quyền con người.
Luật học nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử của pháp luật, nội dung của các hệ thống pháp luật hiện hành, các hình thức pháp lý của việc tổ chức, hoạt động của các nhà nước; các biện pháp pháp lý trong việc quản lý và điều hành các hoạt động của xã hội… Luật học nói chung, các khoa học pháp lý chuyên ngành nói riêng xác lập các quy tắc cư xử chung để đảm bảo nhân phẩm và các quyền tự nhiên, chính đáng của mọi cá nhân đều được tôn trọng và bảo vệ; cũng như các cơ chế, biện pháp, chế tài để bảo đảm các quy tắc cư xử chung đó được thực hiện.
Ở cấp độ toàn cầu, hiện tại pháp luật quốc tế đã xác lập một hệ thống các chuẩn mực quốc tế về quyền con người (international human rights standards) và các cơ chế quốc tế để bảo đảm các tiêu chuẩn đó được thực hiện trên thực tế. Luật nhân quyền quốc tế (international human rights law) hiện đã được công nhận là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế nói chung. Ở cấp độ quốc gia, tùy hoàn cảnh, điều kiện của mỗi nước, vấn đề quyền con người có thể được đề cập bởi nhiều ngành luật, kể từ hiến pháp cho đến luật hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân gia đình…
Chính trị học
Chính trị học là chuyên ngành khoa học xã hội nghiên cứu về đặc điểm, tính chất của quyền lực chính trị và những cách thức, biện pháp giành và giữ quyền lực chính trị. Với ý nghĩa là điểm xuất phát avf nhân tố trung tâm của chính trị học – quyền lực chính trị có quan hệ mật thiết với việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, mối quan hệ giữa quyền và tự do của cá nhân với quyền lực của Nhà nước là một trong những nội dung quan trọng trong nghiên cứu chính trị học.
Về mặt thực tế, mục tiêu chính trị và tương quan quyền lực chính trị là những yếu tố căn bản chi phối và quyết định phạm vi, mức độ bảo đảm các quyền con người trong thực tế cả ở cấp độ quốc tế, khu vực và ở từng quốc gia. Việc xây dựng, thực thi pháp luật về quyền con người, kể cả quốc gia và quốc tế, đều phụ thuộc vào tương quan lực lượng chính trị trong từng thời kỳ. Ở cấp độ quốc tế, cuộc tranh cãi giữa hai khối nước XHCN và TBCN về hai nhóm quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh đã chứng minh rõ ràng điều đó. Ở cấp độ quốc gia, bất kỳ sự thay đổi nào trong chính sách, pháp luật về quyền con người ở một quốc gia đều phản ánh mức độ những nhu cầu về dân chủ, nhân quyền của quần chúng và cấp độ áp lực chính trị mà quần chúng áp đặt lên giới cầm quyền để đòi hỏi đáp ứng những nhu cầu đó. Tất cả những yếu tố này đều thuộc vào đối tượng nghiên cứu của khoa học chính trị. Qua đó, có thể thấy, chính trị học cung cấp một khối lượng lớn tri thức cũng như cách tiếp cận cho việc nghiên cứu quyền con người.
Triết học
Triết học là hệ thống các quan điểm chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới. Triết học nghiên cứu về các sự vật, hiện tượng của tự nhiên và xã hội, nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Các vấn đề cụ thể và cơ bản thuộc vào phạm vi nghiên cứu của triết học bao gồm: bản thể (vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa chúng), chân lý, nhận thức (quá trình nhận thức, mối quan hệ nhận thức và thực tiễn), quan hệ nhân quả,…
Các khuynh hướng, trường phái, trào lưu triết học phương Đông, phương Tây từ trước tới nay đều dành sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đề liên quan đến con người, trong đó bao gồm bản chất con người, quan hệ con người với thế giới chung quanh (vũ trụ, nhân loại, cộng đồng, nhà nước…) và cả quyền con người. Triết học là ngành khoa học xã hội chính giúp chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc, bản chất của quyền conngười, cũng như về sự phát triển của các khuynh hướng tư tưởng về quyền con người trong lịch sử.
Một đóng góp quan trọng nữa của triết học với khoa học về quyền con người thể hiện ở chỗ, triết học cung cấp những phương pháp luận cơ bản cho nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người. Như trên đã đề cập ở trên, ở Việt Nam, triết học Mác-Lênin, mà cụ thể là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đóng vai trò là phương pháp luận nền tảng cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong đó bao gồm khoa học về quyền con người.
Văn hóa học
Văn hóa học nghiên cứu về văn hoá như một chỉnh thể, một chức năng đặc biệt tồn tại dưới các hình thức vật thể và phi vật thể. Khác với nhà nước và pháp luật là những yếu tố gắn với chính thể nên có xu hướng thay đổi, văn hóa là yếu tố gắn liền với đời sống tinh thần, tâm lý của xã hội nên thường tồn tại lâu dài, ít và chậm biến chuyển.
Ở mọi xã hội, văn hóa bao trùm và chi phối tất cả các khía cạnh của đời sống của cư dân, trong đó có pháp luật, thể chế và cả nhận thức, hành động về quyền con người. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới một số bất đồng, thậm chí xung đột trong nhận thức và thực hiện các quyền con người ở một vài nơi trên thế giới. Những bất đồng và xung đột đó xuất phát từ thực tế là tuy các quyền con người có tính tự nhiên và phổ quát với tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại, nhưng mỗi cá nhân con người lại sống trong những nền văn hóa khác nhau (có khu vực chịu ảnh hưởng của Khổng giáo, Kitô giáo, Phật giáo, Hồi giáo…) mà đôi khi có một số nội dung rất khác nhau. Sự khác biệt về văn hóa, thể hiện ở sự khác biệt về truyền thống, phong tục, tập quán, nhận thức và lối sống… dẫn tới những cách hiểu và áp dụng khác nhau với các quyền con người được thừa nhận chung. Làm thế nào để dung hòa và định hướng những giá trị của tất cả mọi nền văn hóa trên thế giới vào một mục tiêu chung là bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, hoặc nói như Liên hợp quốc, để xây dựng một “nền văn hóa nhân quyền’’ chung của toàn nhân loại, đã và đang là một chủ đề thú vị nhưng đầy thách thức với các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, có một điều có thể khẳng định ở đây là, chừng nào mà mối quan hệ giữa sự khác biệt về văn hóa và tính phổ quát của quyền con người còn là chủ đề của các cuộc tranh luận trên thế giới, chừng đó những tri thức về văn hóa vẫn còn cần thiết trong nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người.
Xã hội học
Xã hội học nghiên cứu về các mối quan hệ xã hội, các hiện tượng, quá trình diễn ra trong đời sống xã hội, sự biến đổi, vận động của các quy luật xã hội. Tất cả những yếu tố này, ở những mức độ khác nhau, đều có ảnh hưởng, tác động đến việc xác lập và thực thi các tiêu chuẩn pháp lý và đạp đức về quyền con người, quyền công dân. Cụ thể, kiến thức và các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của xã hội học là không thể thiếu để có thể tìm hiểu tác động của các quy phạm về quyền con người trong thực tiễn, thấy được những thiếu hụt của các định chế pháp lý về quyền, mức độ các quyền pháp lý được áp dụng hay bị vi phạm. Đặc biệt, các chuyên ngành hẹp của xã hội học như xã hội học đô thị, xã hội học nông thôn, xã hội học về giới, v.v.. giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về những yêu cầu và mức độ bảo đảm các quyền của những nhóm đối tượng cụ thể trong những bối cảnh và phạm vi cụ thể.
Kinh tế học
Kinh tế học nghiên cứu sự vận động của các quan hệ kinh tế, chủ yếu là các quan hệ sản xuất, phân phối, tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ. Sự đóng góp của kinh tế học với khoa học về quyền con người trước hết thể hiện ở chỗ, các điều kiện, mức độ phát triển kinh tế có liên quan trực tiếp đến việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện không chỉ các quyền con người về kinh tế, xã hội, văn hóa, mà cả các quyền chính trị, dân sự. Ngược lại, quyền con người là điều kiện tiền đề, không thể thiếu để có sự phát triển ổn định về kinh tế. Minh chứng cho mối quan hệ giữa kinh tế học và khoa học về quyền con người là cách tiếp cận quyền con người (rights-based approach) mà đang được áp dụng một cách phổ biến trong các chương trình phát triển kinh tế, xã hội ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.
Sử học
Lấy luật học làm hướng tiếp cận và nội dung chính, vẫn cần áp dụng những Sử học nghiên cứu những tri thức về quá khứ của loài người và của tự nhiên. Bởi những lý luận và tiêu chuẩn pháp lý về quyền con người hiện nay là sự kết tinh của sự vận động tư tưởng và xã hội của loài người trong suốt chiều dài lịch sử hàng vạn năm, nên kiến thức và những phương pháp nghiên cứu đặc thù của sử học là rất cần thiết để tìm hiểu về tiến trình phát triển của các tư tưởng, quan điểm về quyền con người, sự hình thành và phát triển của các quy phạm, các cơ chế bảo vệ quyền…Chỉ khi tiến trình phát triển này được soi sáng thông qua sử học, nhân loại mới có thể tiếp tục củng cố và bồi đắp các giá trị chung về các quyền và nhân phẩm của con người một cách hiệu quả.
Trên đây là nghiên cứu về “Nhập môn lý luận và pháp luật về quyền con người”. Hy vọng qua bài viết của chúng tôi, giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này. Nếu có bất kỳ thắc mắc về nội dung trên hoặc những vấn đề về pháp luật khác hãy liên hệ hotline 1900.6568 để được chuyên viên tư vấn và hỗ trợ.