Trong những thập kỷ gần đây, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực lớn trong việc làm hài hòa hệ thống pháp luật Việt Nam với các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người. Theo đó khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam chủ yếu là về các quyền con người trong đó bao gồm cơ chế thực hiện và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam. Vậy pháp luật và cơ chế thực hiện, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam được thể hiện như thế nào? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
1. Quyền dân sự và chính trị trong pháp luật Việt Nam
1.1 Quyền sống
Tương ứng với nội dung Điều 6 ICCPR, Điều 71 Hiến pháp 1992 của Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Quy định trên được tái khẳng định ở Điều 32 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005, trong đó nêu rằng: “Cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể. Không ai được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, thân thể của người khác”. Cũng liên quan đến quyền này, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 có một chương (Chương XII, từ Điều 93 đến Điều 122) quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
Giống như một số quốc gia khác trên thế giới, pháp luật Việt Nam hiện vẫn còn duy trì hình phạt tử hình, xuất phát từ yêu cầu khách quan về phòng chống tội phạm. Mặc dù vậy, trong thời gian gần đây, số điều luật có khung hình phạt tử hình trong pháp luật Việt Nam đã được giảm đi đáng kể. Trong vấn đề này, pháp luật hình sự Việt Nam đã quy định chặt chẽ về những giới hạn và bảo đảm về thủ tục tố tụng khi áp dụng hình phạt tử hình.
1.2 Quyền tự do cá nhân
Tương ứng với nội dung các Điều 7, 8, 9, 10, 11, 14, 15 ICCPR, Điều 71 Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm”. Điều 71 Hiến pháp 1992 cũng đồng thời quy định: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.
Bổ sung cho Điều 71, Điều 72 Hiến pháp 1992 nêu rõ, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Đoạn 2 Điều này quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.
Các quy định kể trên trong Hiến pháp 1992 được cụ thể hoá trong BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003, BLDS năm 2005 và nhiều văn bản pháp luật khác.
Ở góc độ cụ thể, quyền tự do và an ninh cá nhân còn được thể hiện trong một số quyền tố tụng. Khuôn khổ pháp luật Việt Nam về các quyền tố tụng đó được nêu khái quát dưới đây:
- Quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục
- Quyền không bị bỏ tù chỉ vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng
- Quyền được suy đoán vô tội
- Quyền không bị buộc phải chứng minh chống lại chính mình
- Quyền được bào chữa và được trợ giúp của luật sư ngay khi bị bắt hoặc bị giam giữ
- Quyền được thông báo lời buộc tội không chậm trễ, được sử dụng và hỗ trợ sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong tố tụng
- Quyền không bị áp dụng hồi tố
- Quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được lập ra theo pháp luật
- Quyền được xét xử trong thời gian hợp lý và không bị trì hoãn
- Quyền được kháng cáo
1.3 Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng
Tương ứng với nội dung các Điều 16, 26 ICCPR, Điều 52 Hiến pháp 1992 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc hiến định này được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác, cụ thể như sau:
Trong quan hệ dân sự, Điều 5 BLDS năm 2005 quy định, các bên trong quan hệ dân sự đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau. Điều 2 Luật quốc tịch năm 2008 khẳng định, mọi cá nhân và thành viên của mọi dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam.
Trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, Hiến pháp 1992 (các Điều 53, 54); Luật bầu cử đại biểu Quốc Hội (Luật BCĐBQH) năm 1997 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) (Điều 1) và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (Luật BCĐBHĐND) năm 2003 (Điều 1) đều quy định nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng về các quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trong quan hệ gia đình, những quy định trong các Chương III (Quan hệ giữa vợ và chồng) và Chương V (Quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại, cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình) của Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2000 thể hiện rõ quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong mọi vấn đề trong quan hệ gia đình cũng như quyền bình đẳng giữa con trai, con gái, con nuôi, con đẻ, con trong hoặc ngoài giá thú.
Trong quan hệ kinh doanh, Điều 57 Hiến pháp 1992, Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005 (được sửa, đổi bổ sung năm 2009) và Điều 10 Luật thương mại năm 2005 đều khẳng định vị thế pháp lý và nguyên tắc đối xử giữa các doanh nghiệp và các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong hoạt động tố tụng, như đã nêu ở phần trên, Điều 8 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy định, Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Điều 4 BLTTHS năm 2003 quy định: “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”. Theo Điều 8 Bộ luật TTDS năm 2004, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp… Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.
1.4 Không bị bắt làm nô lệ, nô dịch hay bị cưỡng bức lao động.
Tương ứng với nội dung Điều 8 ICCPR, Điều 71 Hiến pháp 1992 khẳng định nguyên tắc bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm và an ninh cá nhân.
Theo Điều 19 Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25-3-2008 của Chính phủ quy định về việc tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, các quy định pháp luật lao động của Việt Nam, bao gồm những điều khoản cấm ngược đãi, cưỡng bức lao động đã nêu ở trên, cũng được áp dụng với những người lao động nước ngoài làm việc ở Việt Nam.
1.5 Quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi ở
Tương ứng với nội dung các Điều 12, 13 ICCPR, Điều 68 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật”. Quy định này được tái khẳng định trong các Điều 48 BLDS năm 2005 và Điều 3 Luật cư trú năm 2006. Tuy nhiên, căn cứ vào những hạn chế cho phép với quyền này nêu ở Điều 12 ICPPR, Điều 48 BLDS năm 2005 và Điều 3 Luật cư trú năm 2006 đồng thời nêu rằng, quyền tự do đi lại, tự do cư trú của cá nhân có thể bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Cũng liên quan đến quyền tự do đi lại và cư trú, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch (thay thế các Nghị định trước đó về vấn đề này), trong đó bãi bỏ nhiều yêu cầu như điều kiện nhà ở, chỉ tiêu… với công dân khi đăng ký hộ khẩu ở nơi ở mới.
1.6 Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo
Tương ứng với nội dung Điều 18 ICCPR, Điều 51 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ…”
Quy định trên của Hiến pháp được tái khẳng định ở Điều 47 BLDS năm 2005 và các Điều 1 và 9 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Để bảo đảm sự tuân thủ quyền này, Điều 129 BLHS năm 1999 quy định về tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
1.7 Quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin
Tương ứng với nội dung các Điều 18, 19 ICCPR, Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin”.
Cũng liên quan đến vấn đề trên, Luật xuất bản năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2008 quy định quyền của công dân được công bố các tác phẩm của mình cho công chúng. Luật này và Luật báo chí đều quy định, báo chí và các ấn phẩm trước khi xuất bản đều không bị kiểm duyệt.
Pháp luật về báo chí và xuất bản của nước ta đồng thời quy định cấm lợi dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Những hành vi bị cấm này được quy định cụ thể trong Điều 5 Nghị định số 51/2002/NĐ-CP.
Theo BLHS năm 1999, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, những hành vi lợi dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân có thể bị truy tố theo các Điều 87 (Tội phá hoại chính sách đoàn kết); Điều 88 (Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam); Điều 22 (Tội vu khống); các Điều 263, 264 về tội tiết lộ bí mật nhà nước...
1.8 Quyền tự do lập hội, hội họp hoà bình
Tương ứng với nội dung các Điều 21, 22 ICCPR, Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: “…Công dân có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Để hiện thực hóa quy định của Điều 69 Hiến pháp 1992, BLHS năm 1999 có một điều (Điều 129) quy định về tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Điều 89 BLHS đồng thời quy định về tội phá rối an ninh mà cấu thành hành vi là kích động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức. Ngoài ra, Nghị định số 38/2005/NĐ-CP ngày 18-3-2005 của Chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng có các quy định cụ thể về các hành vi bị cấm nhằm bảo đảm trật tự nơi công cộng, thủ tục đăng ký tập trung đông người ở nơi công cộng với Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền.
Liên quan đến quyền lập hội, hiện nay, Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội tiếp tục còn hiệu lực. Gần đây, Chính phủ ban hành Nghị định 45/2010/NĐ- CP, ngày 21-4-2010, quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, thay thế cho Nghị định 88/2003/NĐ-CP quy định về cùng lĩnh vực.
1.9 Quyền được bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước
Tương ứng với nội dung Điều 25 ICCPR, Điều 53 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với các cơ quan nhà nước…”. Điều 54 Hiến pháp 1992 nêu rõ: “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc Hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”.
Hai quy định kể trên của Hiến pháp được tái khẳng định trong các Điều 2 Luật BCĐBQH năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) và Điều 2 Luật BCĐBHĐND năm 2003. Theo các Điều này, việc bầu cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu HĐND được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Để bảo vệ quyền bầu cử, ứng cử, BLHS năm 1999 có hai điều về Tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân (Điều 126), và Tội làm sai lệch kết quả bầu cử (Điều 127).
2. Quyền kinh tế, xã hội và văn hoá trong pháp luật Việt Nam
2.1 Quyền làm việc và được hưởng những điều kiện làm việc thích đáng
Tương ứng với nội dung các Điều 6, 7 ICESCR, Điều 55 Hiến pháp 1992 quy định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân”.
Quy định ở Điều 55 Hiến pháp được cụ thể hoá trong Điều 49 BLDS năm 2005, theo đó mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo.
Các quy định kể trên của Hiến pháp và BLDS tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa trong nhiều điều khoản của BLLĐ năm 1994 (sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007). Theo Điều 5 và Điều 20 Luật này, mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 5 đồng thời nghiêm cấm ngược đãi, cưỡng bức người lao động dưới bất kỳ hình thức nào.
2.2 Quyền học tập
Tương ứng với nội dung các Điều 13, 14 ICESCR, Điều 59 Hiến pháp 1992 quy định: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyến tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp”.
Quy định kể trên của Hiến pháp được cụ thể hóa trong Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, Luật giáo dục năm 2005 và Luật dạy nghề năm 2006. Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 xác định, giáo dục tiểu học ở Việt Nam là phổ cập, bắt buộc và miễn phí.
Theo Điều 10 Luật giáo dục năm 2005, mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập.
2.3 Quyền được chăm sóc sức khoẻ
Tương ứng với nội dung của Điều 12 ICESCR, Điều 61 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí”.
Quy định kể trên của Hiến pháp được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó đặc biệt quan trọng là Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989.
2.4 Quyền được bảo hộ xã hội
Tương ứng với nội dung của Điều 9 ICESCR, BLLĐ đề cập vấn đề bảo hiểm xã hội trong một chương riêng (Chương XII). Theo Điều 140 BLLĐ, Nhà nước quy định chính sách về bảo hiểm xã hội nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Có hai loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc tự nguyện, được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội thích hợp. Điều 141 BLLĐ quy định, loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng đối với những doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên.
Hiện tại ở Việt Nam, chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc (áp dụng cho người làm công ăn lương khu vực Nhà nước, khu vực tư nhân), bảo hiểm xã hội tự nguyện (áp dụng cho mọi tầng lớp nhân dân ngoài đối tượng của bảo hiểm bắt buộc) và bảo hiểm thất nghiệp.
3. Quyền của một số nhóm dễ bị tổn thương trong pháp luật Việt Nam
3.1 Quyền của phụ nữ trong pháp luật Việt Nam
Giống như ở hầu hết quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, tỷ lệ phụ nữ cao hơn chút ít so với nam giới. Cụ thể, theo Tổng cục Thống kê, tính ở thời điểm năm 2009, phụ nữ chiếm khoảng 50,5% trong tổng số khoảng 86 triệu công dân Việt Nam.
Dưới đây khái quát một số quy định pháp luật hiện hành quan trọng của Việt Nam liên quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ ở một số lĩnh vực chủ yếu:
- Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
- Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế
- Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, việc làm
- Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
- Quyền bình đẳng của phụ nữ trong chăm sóc y tế
- Quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân – gia đình
- Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, khoa học và công nghệ
3.2 Quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam
Theo Điều 1 Luật BV,CS&GD trẻ em, trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Như vậy, độ tuổi được coi là trẻ em trong pháp luật Việt Nam thấp hơn so với quy định trong Điều 1 CRC. Tuy nhiên, điều này không bị coi là trái với CRC vì Điều 1 Công ước này cho phép các quốc gia thành viên quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi.
Có hai nguyên tắc nền tảng chi phối hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở Việt Nam được quy định trong các Điều 4 và 5 Luật BV,CS&GD trẻ em, đó là không phân biệt đối xử và lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em. Đây cũng là hai trong số những nguyên tắc cơ bản của CRC được đề cập trong các Điều 2 và 3 của Công ước này.
Các quyền trẻ trong pháp luật Việt Nam:
- Quyền được khai sinh và có quốc tịch của trẻ em
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em
- Quyền sống chung với cha mẹ của trẻ em
- Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em
- Quyền được chăm sóc sức khoẻ của trẻ em
- Quyền học tập của trẻ em.
- Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch của trẻ em
- Quyền được phát triển năng khiếu của trẻ em
- Quyền sở hữu tài sản của trẻ em
- Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội của trẻ em
- Quyền của những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
3.3 Quyền của người sống chung với HIV / AIDS
Dưới đây khái quát các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về những quyền đặc thù của những người sống chung với HIV/AIDS mà được quy định trong Luật phòng, chống HIV/AIDS và một số văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Quyền bình đẳng không bị kỳ thị, phân biệt đối xử
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị y tế
- Quyền không bị ép buộc xét nghiệm HIV và được giữ bí mật kết quả xét nghiệm
- Quyền không bị phân biệt đối xử trong lao động, việc làm
- Quyền được kết hôn và lập gia đình
- Quyền bình đẳng trong tiếp cận với giáo dục
3.4 Quyền của người khuyết tật trong pháp luật Việt Nam
Việt Nam về những quyền đặc thù của người khuyết tật mà được quy định trong Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng
- Quyền được chăm sóc y tế
- Quyền được hỗ trợ để phục hồi chức năng
- Quyền được giáo dục.
- Quyền được học nghề và có việc làm
- Quyền tham gia hoạt động văn hoá, vui chơi, giải trí, thể thao
- Quyền hội họp, lập hội
- Quyền được hỗ trợ trong việc đi lại
- Các quyền tự do và an toàn cá nhân
3.5 Quyền của người lao động di trú trong pháp luật Việt Nam
Ngày 29-11-2006, Quốc Hội đã thông qua Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Ngoài ra, để quản lý và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài làm việc ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25-3-2008 quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Đây là hai văn bản pháp luật hiện hành quan trọng nhất của Việt Nam về vấn đề người lao động di trú.
Dưới đây khái quát các quy định pháp luật hiện hành quan trọng của Việt Nam về quyền của người lao động di trú được nêu trong hai văn bản pháp luật kể trên.
- Quyền của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
- Quyền của người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
3.6 Quyền của người thiểu số trong pháp luật Việt Nam
Dưới đây khái quát khuôn khổ những quy định pháp luật cơ bản về quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam:
- Quyền bình đẳng không bị phân biệt đối xử
- Quyền giữ gìn bản sắc văn hóa
- Quyền được nhà nước hỗ trợ để phát triển về mọi mặt
4. Khái quát về cơ chế thực hiện và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam
4.1 Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền con người
Thực tế cho thấy, chất lượng hoạt động của Quốc Hội phụ thuộc nhiều vào hai yếu tố bên trong, đó là tổ chức và phương thức hoạt động. Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Quốc Hội bảo đảm cho Quốc Hội chuyển sang hoạt động thường xuyên hơn với chất lượng cao hơn theo hướng: Một là, đổi mới nội dung và cách thức tổ chức các kỳ họp trong năm, tạo điều kiện và đặt ra yêu cầu đại biểu Quốc Hội giành thời gian tiếp xúc cử tri, tìm hiểu thực tế nhiều hơn. Hai là, tổ chức và củng cố các Ủy ban và thường trực các Ủy ban của Quốc Hội theo hướng chuyên nghiệp hơn. Ba là, tăng cường lực lượng đại biểu Quốc Hội chuyên trách, tạo cơ chế phối hợp giữa đại biểu Quốc Hội chuyên trách và đại biểu kiêm nhiệm, bảo đảm thực hiện tốt sứ mạng của Quốc Hội trước quốc dân đồng bào, bảo đảm thực hiện và phát triển quyền con người trong sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.
4.2 Một số khó khăn và thách thức trong việc thực hiện cơ chế bảo đảm và phát triển quyền con người ở Việt Nam
Sự phát triển của kinh tế thị trường một mặt đã đem đến sự đổi mới và phát triển nhanh chóng mọi mặt đời sống xã hội, tôn vinh các giá trị lao động sáng tạo và xuất hiện sự sung túc, giầu sang, thỏa mãn ngày càng cao các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, nhưng mặt khác kéo theo những tiêu cực và vấn nạn xã hội đáng lo ngại, ảnh hưởng trực tiếp tới vận hành cơ chế bảo đảm thực hiện và phát triển quyền con người. Thất nghiệp gia tăng; sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng miền ngày càng lớn; nạn tham nhũng và sử dụng phung phí tiền bạc, tài sản xã hội diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Những tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS và tình trạng bạo lực có chiều hướng lan rộng; tai nạn giao thông ngày càng tăng; môi trường sống bị ô nhiễm, dân số tăng nhanh…
Hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, trong lĩnh vực quyền con người nói riêng, còn chưa đồng bộ, có chỗ còn chồng chéo, mâu thuẫn dẫn tới khó khăn, thậm chí hiểu sai, trong quá trình vận dụng và thực thi pháp luật. Đây chính là vật cản lớn đối với sự phát triển của xã hội cũng như trong việc bảo đảm thực hiện, phát triển con người. Nhận diện thách thức đó, Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam định hướng đến năm 2020, trước mắt là rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn bản luật mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, tính khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện của các văn bản quy phạm pháp luật này, bảo đảm có hệ thống pháp luật và pháp chế thống nhất phản ánh những nhu cầu thực tiến của xã hội, những gì xã hội có, xã hội cần, xã hôi có thể chấp nhận và thực hiện được, một hệ thống pháp luật vì con người và sự phát triển của con người.
4.3 Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam
Để vượt qua khó khăn, thách thức đối với sự vận hành của cơ chế bảo đảm thực hiện và phát triển quyền con người và để đạt được nhiều tiến bộ hơn nữa trong việc nâng cao giá trị quyền con người, đất nước ta cần thực hiện một số ưu tiên quốc gia trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2015, trong tầm nhìn phát triển đất nước đến 2020 và những năm tiếp theo.
Tăng trưởng kinh tế phải đi liền với công bằng, bình đẳng. Phát triển kinh tế thị trưởng phải gắn bó chặt chẽ với tiến bộ xã hội, phát triển đất nước giầu mạnh đồng thời xóa đói giảm nghèo tiến tới không còn hộ nghèo là một trong các ưu tiên hàng đầu để thực hiện và phát triển quyền con người.
Các chương trình cải cách pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp cần tiếp tục được đẩy mạnh hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ, bảo đảm thực hiện và phát triển quyền con người.
Trên đây là những phân tích về “Pháp luật và cơ chế thực hiện quyền con người ở Việt Nam”. Hy vọng qua bài viết của chúng tôi, giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này. Nếu có bất kỳ thắc mắc về nội dung trên hoặc những vấn đề về pháp luật khác hãy liên hệ hotline 1900.6568 để được chuyên viên tư vấn và hỗ trợ.