Trước yêu cầu của việc kiểm định chất lượng đào tạo và xu thế tự chủ của các trường đại học, việc thúc đẩy khai thác, thương mại hóa tài sản trí tuệ (TSTT) phát sinh trong hoạt động nghiên cứu, đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học trở thành một nhu cầu cấp thiết.
Tuy nhiên, hoạt động thương mại hóa TSTT của hầu hết các trường đại học tại Việt Nam hiện nay, đặc biệt là các trường thuộc khối khoa học xã hội còn nhiều hạn chế, không chỉ dẫn đến lãng phí nguồn tài nguyên trí tuệ, ảnh hưởng tiêu cực đến việc khuyến khích hoạt động sáng tạo, giảm sút năng lực cạnh tranh của các cơ sở đào tạo mà còn hạn chế sự phát triển văn hóa, giáo dục cũng như hội nhập quốc tế của đất nước.
1. Khái quát về thương mại hóa TSTT tại các trường khối khoa học xã hội
1.1 Khái niệm thương mại hóa TSTT
Thương mại hóa TSTT có thể được hiểu là việc tạo ra lợi nhuận từ chính việc chủ sở hữu hoặc chủ thể được chủ sở hữu cho phép tiến hành khai thác giá trị của quyền sở hữu và quyền sử dụng các kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ.
1.2 Các phương thức thương mại hóa TSTT tại các trường thuộc khối khoa học xã hội
– Chủ sở hữu tự khai thác thương mại TSTT một cách trực tiếp. Đây là hình thức cơ bản và phổ biến nhất vì chính chủ sở hữu tự mình sử dụng, khai thác TSTT do họ sáng tạo ra hoặc nắm quyền sở hữu và đưa TSTT áp dụng vào hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học để thu được lợi nhuận mà không phụ thuộc vào sự tham gia của các chủ thể khác.
Tại các trường thuộc khối khoa học xã hội, các sáng tạo trí tuệ chủ yếu là các giáo trình, tập bài giảng, sách chuyên khảo, các tạp chí chuyên ngành hay các đề tài nghiên cứu khoa học nên việc khai thác, thương mại hóa chủ yếu thể hiện ở việc các cơ sở này sử dụng các tác phẩm đó phục vụ cho quá trình giảng dạy, học tập, nghiên cứu của giảng viên, sinh viên của cơ sở đào tạo đó thông qua hoạt động của các thư viện, bộ phận cung cấp tài liệu học tập. Tuy nhiên, hình thức khai thác này cũng có hạn chế vì chưa tận dụng được triệt để các nguồn lực khác để có thể khai thác tối ưu lợi thế của TSTT và ở một khía cạnh nào đó, hình thức này hạn chế khả năng tiếp cận tri thức, khoa học của công chúng.
– Chuyển giao quyền đối với TSTT. Chuyển giao quyền SHTT bao gồm chuyển nhượng quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng TSTT. Việc chuyển giao này chỉ áp dụng đối với các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm trong thời hạn bảo hộ và phạm vi lãnh thổ nơi TSTT được bảo hộ.
– Sử dụng TSTT để liên kết, hợp tác: các cơ sở đào tạo cũng có thể sử dụng nguồn thông tin, tri thức mà cơ sở nắm quyền sở hữu hoặc sử dụng để liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu hoặc các cơ quan, tổ chức khác để khai thác nguồn tài nguyên về khoa học, nghệ thuật là kết tinh sáng tạo trí tuệ của người dạy và người học.
2. Xác định TSTT có thể khai thác thương mại tại các trường khối khoa học xã hội
2.1 Một số đối tượng được bảo hộ quyền tác giả
– Tác phẩm thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác như giáo trình, tập bài giảng, sách tham khảo, sách chuyên khảo; giáo án, tài liệu dịch thuật; sản phẩm của đề tài nghiên cứu khoa học các cấp của giảng viên, sinh viên; bài viết trong kỷ yếu hội thảo, tọa đàm, tài liệu tập huấn, hướng dẫn; đề cương chi tiết học phần, đề bài tập, đề thi; luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập chuyên môn, tiểu luận và các loại bài tập của người học… Đây là sản phẩm của hoạt động sáng tạo trí tuệ trong lĩnh vực khoa học được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác bằng bất kỳ phương tiện nào.
– Tác phẩm báo chí: hiện nay, khá nhiều cơ sở đào tạo đại học đã phát hành tạp chí chuyên ngành của trường nhằm mục đích công bố, giới thiệu kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, tạo diễn đàn trao đổi các vấn đề học thuật cũng như phổ biến kinh nghiệm, phương pháp đào tạo của các cơ sở trong và ngoài nước.
– Tác phẩm âm nhạc như các ca khúc được sáng tác dành riêng cho các cơ sở đào tạo đại học, được coi như bài hát truyền thống của trường hay các ca khúc do giảng viên, sinh viên của trường sáng tác nhằm tuyên truyền, quảng bá cho hoạt động của trường thông qua các cuộc thi.
– Tác phẩm tạo hình, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là các tác phẩm được thể hiện bằng đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục được hình thành trong quá trình đào tạo, nghiên cứu của các cơ sở giáo dục đại học khối khoa học xã hội.
– Tác phẩm nhiếp ảnh gắn liền với hình ảnh của các cơ sở đào tạo đại học, hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu của giảng viên, học viên trong trường.
2.2 Các đối tượng được bảo hộ quyền liên quan đến quyền tác giả
Bên cạnh quyền tác giả, hoạt động của các trường đại học thuộc khối khoa học xã hội còn hình thành nên đối tượng được bảo hộ quyền liên quan như cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng. Các bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng các buổi hội thảo, bài giảng, diễn án, thực hành trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu của các trường cũng là TSTT có khả năng khai thác thương mại và mang lại lợi ích về mặt vật chất cho chủ sở hữu.
2.3 Các đối tượng được bảo hộ quyền SHCN
– Nhãn hiệu: theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật SHTT, nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Các cơ sở giáo dục đại học đã đăng ký quyền SHCN đối với nhãn hiệu và được Cục SHTT cấp văn bằng bảo hộ là chủ sở hữu nhãn hiệu đó.
– Bí mật kinh doanh: Đối với các cơ sở giáo dục đại học thuộc khối khoa học xã hội, thông tin được bảo hộ là bí mật kinh doanh có thể là cơ sở dữ liệu thông tin cá nhân của giảng viên, người học và các đối tác; kế hoạch, chiến lược quảng bá tuyển sinh, đào tạo, nghiên cứu khoa học; các thông tin liên quan đến phân chia lợi ích, mức thu nhập của các cá nhân; báo cáo thu chi tài chính nội bộ hay các thông tin liên quan đến điều hành, sắp xếp kế hoạch đào tạo, nghiên cứu khoa học và nhân sự nội bộ…
3. Nguyên nhân hạn chế việc thương mại hóa TSTT tại các trường đại học thuộc khối khoa học xã hội
Thứ nhất, các cơ sở giáo dục đại học chưa thực sự chú trọng đến việc thương mại hóa TSTT
Có thể thấy, tại một số cơ sở đào tạo hiện nay, việc nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của TSTT cũng như các vấn đề về quản trị và khai thác thương mại các sáng tạo trí tuệ mà các trường nắm quyền sở hữu chưa được quan tâm tương xứng. Trên thực tế, các trường mới chỉ tập trung vào hoạt động giảng dạy, đào tạo là chính. Trong thời gian gần đây, hoạt động nghiên cứu khoa học đã được một số trường quan tâm, đẩy mạnh tuy nhiên việc khai thác thương mại các kết quả nghiên cứu còn hạn chế, chủ yếu chỉ được sử dụng để phục vụ mục đích học tập, nghiên cứu của giảng viên và sinh viên của chính cơ sở đào tạo hoặc một số trường đào tạo cùng chuyên ngành.
Bên cạnh đó cũng tồn tại một thực trạng phổ biến là dựa trên các kết quả nghiên cứu theo yêu cầu hoặc ký kết hợp đồng với nhà trường, các tác giả tự tiến hành khai thác thương mại một cách tự phát thông qua việc gửi bài đăng trên các tạp chí, diễn đàn hoặc tự bỏ kinh phí xuất bản sách chuyên khảo, sách tham khảo, dẫn đến việc các đề tài nghiên cứu sau khi được nghiệm thu chưa được khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả.
Thứ hai, bộ phận phụ trách thương mại hóa TSTT chưa được thành lập hoặc đã thành lập nhưng chưa hoạt động hiệu quả
Nhiều cơ sở đào tạo đại học hiện nay vẫn chưa thành lập một bộ phận chuyên trách, chưa tuyển dụng cán bộ có chuyên môn để giải quyết các vấn đề về bảo hộ quyền SHTT phát sinh tại trường. Bên cạnh các trường hợp đó, cũng có một số trường đại học đã thành lập bộ phận chuyên trách về quản lý hoạt động SHTT, thường là nằm trong đơn vị quản lý khoa học để đáp ứng yêu cầu của việc kiểm định chất lượng đào tạo và giải quyết các vấn đề thực tiễn phát sinh.
Đây là đơn vị chuyên môn đảm trách việc hỗ trợ xác lập, thương mại hóa và là đầu mối xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp liên quan đến SHTT phát sinh trong hoạt động của trường. Tuy nhiên, qua thực tế khảo sát, bộ phận này tại các trường đại học tiềm lực vẫn còn yếu và hoạt động chưa hiệu quả.
Thứ ba, còn thiếu các công trình, sản phẩm khoa học có tính ứng dụng cao tại các cơ sở giáo dục đại học thuộc khối khoa học xã hội
Tại các trường đại học hiện nay, đa số các giảng viên, nhà nghiên cứu, sinh viên thường thực hiện việc nghiên cứu khoa học để phục vụ cho mục đích công bố, giảng dạy, hoàn thành nhiệm vụ hoặc đạt được những thành tích trong học tập và nghiên cứu. Chính bởi vậy các sản phẩm nghiên cứu vẫn mang tính lý thuyết cao, các chủ đề nghiên cứu chưa gắn liền với nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp, của thị trường nên các trường thường gặp khó khăn hoặc thậm chí không thể khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu trong thực tế.
Thứ tư, khó khăn trong việc định giá TSTT
Để làm căn cứ cho hoạt động thương mại hóa, việc định giá TSTT đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc tính vô hình của TSTT, việc định giá TSTT tại các trường đại học còn nhiều vướng mắc, hạn chế và vẫn chưa tuân theo một chuẩn mực nhất định nào. Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về định giá TSTT hầu như chưa điều chỉnh trực tiếp vấn đề định giá TSTT mà chỉ đề cập tới các quy định mang tính chất nguyên tắc về cách thức tính toán.
Thậm chí các quy định trong Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chưa có quy định cụ thể liên quan đến việc định giá TSTT. Trên thực tế, hoạt động định giá TSTT vẫn chưa được quan tâm đúng mức, kiến thức, kỹ năng lựa chọn phương pháp định giá, thu thập số liệu phục vụ định giá cũng như việc áp dụng các phương pháp để xác định giá trị TSTT chưa được các trường đại học nhận thức và thực hiện.
Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra và thực thi quyền SHTT tại các cơ sở giáo dục đại học còn nhiều hạn chế
Trên thực tế, các hành vi xâm phạm quyền SHTT tại các cơ sở giáo dục đại học diễn ra khá phổ biến, có xu hướng mở rộng về phạm vi, gia tăng về số lượng và nghiêm trọng về tính chất, mức độ. Sở dĩ tồn tại thực trạng này một phần là do việc thanh tra, xử lý các hành vi xâm phạm chưa được tiến hành một cách hiệu quả, bản thân các trường đại học với tư cách là chủ sở hữu quyền tác giả cũng chưa có những động thái tích cực để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
4. Một số giải pháp thúc đẩy thương mại hóa TSTT tại các trường đại học khối khoa học xã hội
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của các cơ sở giáo dục đại học về vai trò, ý nghĩa của việc thương mại hóa TSTT
Ngày 24/12/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt Chương trình phát triển TSTT đến năm 2030, trong đó có đề ra mục tiêu cụ thể là đến năm 2025, 100% các trường đại học, viện nghiên cứu được tuyên truyền, nâng cao nhận thức và hỗ trợ bảo hộ quyền SHTT cho các kết quả nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo. Theo đó, có những nội dung liên quan đến các trường đại học như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về SHTT thông qua việc xây dựng và triển khai các chương trình tập huấn, đào tạo từ cơ bản đến chuyên sâu về SHTT phù hợp với từng nhóm đối tượng;
Phát triển TSTT của viện nghiên cứu, trường đại học, hỗ trợ tư vấn định giá, kiểm toán TSTT. Như vậy, để hoạt động thương mại hóa TSTT đạt hiệu quả, trước hết cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, tập huấn để các cán bộ quản lý tại các cơ sở giáo dục đại học nhận thức được một cách đầy đủ, rõ ràng về giá trị của TSTT, quy định của pháp luật SHTT cũng như các nội dung và ý nghĩa của việc quản lý, khai thác TSTT tại đơn vị.
Việc tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm cần được tiến hành một cách đồng bộ, có hệ thống, thường xuyên, liên tục thông qua các buổi tọa đàm, hội thảo với các tình huống thực tế, ví dụ cụ thể và giới thiệu các mô hình tiêu biểu để các cán bộ phụ trách cập nhật các quy định của pháp luật, đánh giá được hiệu quả của các biện pháp triển khai và kịp thời rút kinh nghiệm, tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn thương mại hóa TSTT tại đơn vị.
Các nội dung cần tập trung phổ biến là kỹ năng xây dựng chiến lược về SHTT, ban hành quy chế về quản lý, khai thác thương mại TSTT, thiết kế và hoàn thiện các biểu mẫu, quy trình, thủ tục liên quan đến việc khai báo, xác lập quyền, định giá, lựa chọn phương thức khai thác TSTT, maketing, đàm phán và soạn thảo các loại hợp đồng phù hợp với đặc thù của từng cơ sở đào tạo. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các nhà nghiên cứu, chuyên gia cần biên soạn và phát hành các tài liệu từ cơ bản đến chuyên sâu để hướng dẫn, đào tạo các kỹ năng cho cán bộ quản lý tại các cơ sở giáo dục đại học. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng thường xuyên tổ chức đánh giá, vinh danh và khen thưởng các tập thể và cá nhân có thành tích, sáng kiến trong quản trị TSTT tại các trường đại học.
Thứ hai, cần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận chuyên trách quản lý hoạt động SHTT tại các cơ sở đào tạo đại học
Theo kinh nghiệm của hầu hết các trường đại học lớn trên thế giới, bộ phận quản lý TSTT cần được thành lập trong trường đại học. Đây là đơn vị chuyên môn đảm trách việc hỗ trợ xác lập, thương mại hóa và là đầu mối giải quyết các tranh chấp liên quan đến TSTT của trường. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của đơn vị này tùy thuộc vào quy mô và tần suất sử dụng các đối tượng SHTT và các loại quyền SHTT mà nhà trường nắm giữ.
Để bộ phận này hoạt động hiệu quả, trường đại học cần ban hành quyết định thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ của bộ phận quản lý TSTT một cách cụ thể, rõ ràng theo hướng đảm bảo tính khách quan, chủ động tích cực và khuyến khích việc bảo hộ, khai thác thương mại TSTT. Bên cạnh đó cần xây dựng kế hoạch hoạt động và kế hoạch tài chính cho hoạt động quản lý quyền SHTT; ban hành quy trình, thủ tục và các biểu mẫu; xây dựng cơ chế triển khai xác lập quyền và khai thác thương mại TSTT, đưa ra các nguyên tắc và phương pháp định giá TSTT, xác định rõ ràng tỷ lệ phân chia lợi nhuận thu được trong quá trình thương mại hóa sản phẩm trí tuệ.
Thứ ba, cần tăng cường khả năng ứng dụng, khai thác thương mại và tiếp cận thị trường của các công trình, sản phẩm khoa học tại các cơ sở đào tạo đại học
Trong quá trình định hướng và phê duyệt đề tài nghiên cứu khoa học, các trường đại học cần chú trọng đến khả năng ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu trên thị trường. Để làm được điều này, các trường đại học và các nhà nghiên cứu cần thiết lập mối quan hệ hợp tác với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động thực tiễn, các doanh nghiệp, thường xuyên có các hoạt động trao đổi và lắng nghe nhu cầu, các vấn đề phát sinh cần giải quyết để có định hướng phù hợp cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
Việc nghiên cứu giờ đây không chỉ dựa trên những kiến thức, tài liệu sẵn có hay đam mê mang tính cá nhân của người nghiên cứu mà cần dựa trên cơ sở đơn đặt hàng, yêu cầu của các chủ thể hoạt động thực tiễn để hình thành nên những sản phẩm có chất lượng, có tính ứng dụng cao để phục vụ nhu cầu giải quyết các công việc trong thực tế.
Ví dụ như khi các doanh nghiệp có nhu cầu được trang bị kiến thức cơ bản và kỹ năng cho lãnh đạo và bộ phận chuyên môn trong việc quản trị TSTT, nội dung nghiên cứu khoa học sẽ tập trung vào cách thức truyền đạt những quy định của pháp luật thông qua các tình huống thực tiễn hay phát sinh trong hoạt động của các công ty, tập đoàn; các vấn đề liên quan đến xây dựng chiến lược SHTT, các quy chế, văn bản, quy trình, thủ tục; kỹ năng nhận diện, thống kê, lựa chọn phương thức bảo hộ TSTT trong doanh nghiệp; kỹ năng tiến hành thủ tục xác lập quyền SHTT; kỹ năng đàm phán, soạn thảo và thực hiện các hợp đồng chuyển giao quyền cũng như cách thức xác định hành vi xâm phạm và các biện pháp cần tiến hành để bảo vệ quyền lợi của công ty.
Thứ tư, cần hoàn thiện quy định của pháp luật cũng như hướng dẫn cụ thể nhằm tháo gỡ những khó khăn trong việc định giá TSTT tại các cơ sở giáo dục đại học
Để thúc đẩy hoạt động thương mại hóa TSTT, Việt Nam cần xây dựng các quy định trực tiếp điều chỉnh khía cạnh kinh tế của TSTT, trong đó quy định về vấn đề kiểm toán TSTT, định giá và kiểm soát giá trị của TSTT. Các nội dung liên quan đến định giá TSTT cần được quy định trong một văn bản thống nhất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, áp dụng pháp luật, làm cơ sở nền tảng cho các bên xác định giá trị, tham gia đàm phán, ký kết các hợp đồng chuyển giao quyền SHTT.
Thứ năm, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm hạn chế các hành vi xâm phạm quyền SHTT của các cơ sở giáo dục đại học
Như đã phân tích ở trên, một trong những nguyên nhân hạn chế khả năng thương mại hóa TSTT của các trường đại học là do hành vi xâm phạm vẫn diễn ra phổ biến mà chưa bị nhắc nhở, xử lý nghiêm minh. Chính vì vậy, các cơ sở giáo dục đại học cần có quy định chi tiết, cụ thể về các hành vi xâm phạm, đưa nội dung kiểm tra việc chấp hành quy định về bảo hộ quyền SHTT vào nhiệm vụ của bộ phận thanh tra đào tạo. Các hành vi xâm phạm quyền SHTT trong trường khi bị phát hiện cần xử lý nghiêm theo quy chế của trường và đưa tin công khai để giáo dục, răn đe với các sinh viên, học viên khác.