Hiện nay, khoa học công nghệ ngày càng phát triển, nhiều máy móc, phương tiện hiện đại được chế tạo ra nhằm phục vụ thương mại, sản xuất. Tuy nhiên, nó cũng kéo theo nhiều rủi ro tiềm ẩn đối với những máy móc, thiết bị hiện đại, trong Bộ luật dân sự 2015 quy định rõ các thiết bị trên được xếp vào nguồn nguy hiểm cao độ. Đồng thời, pháp luật cũng quy định bồi thường thiệt hại là một chế định của pháp luật dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khi các quyền, lợi ích hợp pháp này bị các chủ thể khác xâm phạm và gây thiệt hại. Vậy pháp luật quy định như thế nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, và chủ thể nào sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường trên. Hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật dân sự 2015;
- Nghị quyết số: 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
1. Nguồn nguy hiểm cao độ là gì?
Khoản 2 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định về nguồn nguy hiểm cao độ như sau: “nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.” Như vậy, có thể thấy theo các quy định của Việt Nam hiện nay không có quy định nào đưa ra khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ, chưa có một khái niệm chính thống mà chỉ được diễn đạt dưới dạng liệt kê.
Từ đó, có thể hiểu nguồn nguy hiểm cao độ chính là những vật có trong thế giới tự nhiên hay hoạt động của máy móc, phương tiện khoa học, kỹ thuật.. mà hoạt động liên quan tới chúng có tiềm năng gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe tài sản cho những người xung quanh mà con người không thể kiểm soát được.
Để xác định thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ, cần phải làm rõ các khái niệm được liệt kê trong quy định bao gồm:
- Phương tiện vận tải cơ giới: Theo tinh thần của khoản 1 Điều 601 thì phương tiện vận tải cơ giới gồm phương tiện vận tải hoạt động trên đường phố, đường sắt, đường thủy, đường hàng không, được trang bị và hoạt động bằng máy móc.
Ví dụ: Theo khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 02/2022/NQ-HĐTP thì: Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự theo quy định tại khoản 18 Điều 3 của Luật Giao thông đường bộ năm 2008 là nguồn nguy hiểm cao độ.
- Hệ thống tải điện và nhà máy công nghiệp: hệ thống tải điện được hiểu là đường dây dẫn truyền điện, công tơ, máy phát điện, cầu dao. Còn nhà máy công nghiệp gồm nhà máy công nghiệp nhẹ và nhà máy công nghiệp nặng.
- Vũ khí: Vũ khí theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, sửa đổi, bổ sung năm 2019 là nguồn nguy hiểm cao độ. Vũ khí bao gồm vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, vũ khí thô sơ…Tuy nhiên, không phải tất cả các loại vũ khí kể trên đều là nguồn nguy hiểm cao độ. Một số loại vũ khí thô sơ như: dao găm, đinh ba là tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt thì không phải là nguồn nguy hiểm cao độ.
- Chất cháy, chất nổ: Là các chất lỏng, khí, rắn dễ xảy ra cháy, nổ
- Chất độc: Là những chất có đặc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng của con người, động vật cũng như môi trường xung quanh.
- Chất phóng xạ: Là chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ trên 70 kilo Becoren trên Kilogam. Là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân gồm các động vị không bền của các yếu tố hóa học (urani, radi…) có khả năng phóng ra các chùm tia phóng xạ không nhìn thấy, gây nhiễm xạ với người, động vật và môi trường sống.
- Thú dữ: Là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, lớn, rất dữ và có thể làm hại người.
2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
– Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự được đặt ra khi hành vi vi phạm nghĩa vụ của một người đã gây ra thiệt hại, bao gồm trách nhiệm bồi thường vật chất và trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trường hợp ngoại lệ của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, được xác định không cần yếu tố lỗi. Khi có thiệt hại xảy ra do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì sẽ phát sinh trách nhiệm phải bồi thường.
– Theo đó có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, trong đó chủ sở hữu hoặc là người được giao quản lý sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản cũng như bù đắp những tổn thất về tinh thần cho những ai bị thiệt hại do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ đó gây ra, ngay cả khi họ không có lỗi, trừ các trường hợp: Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Ví dụ: xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật bất ngờ có người lao vào xe để tự tử…hay thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc do tình thế cấp thiết.
2.2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm hiểm cao độ gây ra phải tuân thủ các nguyên tắc theo quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
– Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình;
– Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường;
– Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra;
– Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
2.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Thứ nhất, phải có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại được hiểu là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, trong trường hợp có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì thiệt hại này không bao gồm thiệt hại do danh dự, nhân phẩm. Bởi vì, nguồn nguy hiểm cao độ là những phương tiện, máy móc, thiết bị nên khi gây thiệt hại thì chủ yếu là thiệt hại về tài sản, sức khỏe và tính mạng chứ không gây ra thiệt hại về danh dự, nhân phẩm được.
Ngoài ra, do đây là nguồn nguy hiểm “cao độ” nên có thể gây ra thiệt hại cho bất cứ ai, kể cả chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng, quản lý, thậm chí là những người không có liên quan đến những nguồn nguy hiểm cao độ này. Vì vậy, pháp luật đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ khi chúng gây thiệt hại cho những “người xung quanh”, bất kể những người này không có quan hệ với nguồn nguy hiểm cao độ đó.
Thứ hai, thiệt hại phải do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Vì đối tượng được xác định ở đây là nguồn nguy hiểm cao độ nên cần phải làm rõ vấn đề: Thiệt hại xảy ra có phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay không?.
Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 nêu rõ đối với các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp thì phải đang trong trạng thái hoạt động. Nếu những đối tượng này đang ở trạng thái “tĩnh” thì không thể xem là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Như vậy, khi các nguồn nguy hiểm cao độ được liệt kê tại Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 “đang hoạt động” mà gây thiệt hại thì sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Đối với chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, về nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải được coi là nguyên nhân trực tiếp và thiệt hại được coi là hậu quả kéo theo. Như vậy, có thể thấy rằng hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước và thiệt hại xảy ra sau. Chính vì thế, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ phát sinh khi sự “tự thân hoạt động” của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại xảy ra.
Thứ tư, yếu tố lỗi
Theo quy định tại khoản 3 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 thì: “chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
– Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
– Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Theo hướng dẫn tại khoản 4 Điều 12 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP thì:
a) Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Ví dụ: Khu vực có biển báo là nguồn điện cao thế nguy hiểm chết người nhưng A vẫn vào trộm đồ và bị điện giật chết là trường hợp hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn.
Trách nhiệm bồi thường trong tình thế cấp thiết được thực hiện theo quy định tại Điều 595 của Bộ luật Dân sự.
Ví dụ: A đang lái xe ô tô theo đúng Luật Giao thông đường bộ, B lái xe máy theo hướng ngược chiều với A và lấn làn đường của A. Để tránh gây tai nạn cho B và không còn cách nào khác nên A đã lái xe va vào chiếc xe máy thuộc sở hữu của C đang đậu trên lề đường gây thiệt hại cho C. Trường hợp này là tình thế cấp thiết, A không phải bồi thường thiệt hại cho C mà B phải bồi thường thiệt hại cho C vì B đã gây ra tình thế cấp thiết theo khoản 2 Điều 595 của Bộ luật Dân sự.
Như vậy, có thể thấy rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát sinh ngay cả khi không tồn tại yếu tố lỗi của chủ sở hữu. Điều này chứng tỏ rằng, hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển. Tuy nhiên, lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
3. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Căn cứ theo quy định tại Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 các chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể là:
– Chủ sở hữu
– Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng.
3.1. Chủ sở hữu
Pháp luật dân sự quy định buộc chủ sở hữu phải có trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại. Theo quy định tại khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật”. Chủ sở hữu là người được thực hiện toàn bộ các quyền dân sự như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, trong đó có quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Vì vậy, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường khi đang chiếm hữu, sử dụng ngay cả khi mình có lỗi hay không có lỗi.
- Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng mà người này gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.
Ví dụ: các thỏa thuận sau đây không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:
– Thỏa thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
– Thỏa thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước bằng tài sản hợp pháp, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường trong trường hợp chủ sở hữu có điều kiện bồi thường.
- Trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
3.2. Đối với người chiếm hữu, sử dụng
Khi chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải có trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật mà không có lỗi của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp thì người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp chủ chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Khi thuộc một trong các trường hợp sau thì người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường như đã nêu và phân tích ở trên:
– Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
– Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trên đây là nội dung phân tích về “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”. Nếu còn những thắc mắc nào xung quanh nội dung trên hoặc những vấn đề pháp luật khác cần giải đáp, hãy liên hệ Luật Dương Gia qua Hotline 1900.6586 để được tư vấn và hỗ trợ.