Quy định về việc một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ

quy-dinh-ve-viec-mot-tai-san-dung-de-bao-dam-thuc-hien-nhieu-nghia-vu

Trong giao dịch dân sự, việc sử dụng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là một biện pháp phổ biến nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia. Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ.

Tuy nhiên việc này cần tuân theo các quy định của pháp luật. Bài viết này sẽ trình bày các quy định về việc một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ.

Căn cứ pháp lý:

Bộ luật Dân sự 2015;

Nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ.

Để hiểu rõ quy định về việc một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, việc đầu tiên cần làm là nắm khái niệm và bản chất của tài sản đảm bảo.

1. Tài sản bảo đảm là gì?

1.1.  Khái niệm tài sản đảm bảo

Hiện nay, trong các văn bản pháp luật vẫn chưa có định nghĩa cụ thể về tài sản bảo đảm. Vì vậy, ta có thể hiểu một cách đơn giản như sau: Tài sản bảo đảm là tài sản được bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm thông qua các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh,…

Mặc dù không định nghĩa tài sản bảo đảm là gì nhưng Điều 8 Nghị định 21/2021/NĐ-CP có quy định các loại tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ gồm có:

Điều 8. Tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

Tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm:

1. Tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan cấm mua bán, cấm chuyển nhượng hoặc cấm chuyển giao khác về quyền sở hữu tại thời điểm xác lập hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm;

2. Tài sản bán trong hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu;

3. Tài sản thuộc đối tượng của nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ bị vi phạm đối với biện pháp cầm giữ;

4. Tài sản thuộc sở hữu toàn dân trong trường hợp pháp luật liên quan có quy định.”

1.2. Điều kiện để trở thành tài sản bảo đảm

Điều kiện bảo đảm được quy định chi tiết tại Điều 295 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể như sau:

– Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu;

Khi đưa tài sản trở thành đối tượng của các biện pháp bảo đảm phải đảm bảo tài sản đó thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Quy định này nhằm loại bỏ phần nào rủi ro cho bên nhận bảo đảm.

– Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được;

Việc mô tả tài sản được quy định trong Điều 9 Nghị định 21/2021/NĐ-CP do các bên tự thỏa thuận với nhau nhưng nếu là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký thì thông tin được mô tả theo thỏa thuận phải phù hợp với thông tin trên Giấy chứng nhận.

Trường hợp tài sản bảo đảm là quyền tài sản thì thông tin được mô tả theo thỏa thuận phải thể hiện được tên, căn cứ pháp lý phát sinh quyền tài sản.

– Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai;

Tài sản hiện có là loại tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.

Bộ luật Dân sự cho phép tài sản hình thành tương lai được làm tài sản đảm bảo. Tài sản hình thành trong tương lai là loại tài sản chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch.

– Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.

2. Quy định về việc một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ.

Khi xác lập biện pháp bảo đảm, các bên có thể chọn một tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ được bảo đảm. Tuy nhiên, nếu giá trị của tài sản lớn hơn đáng kể so với nghĩa vụ được bảo đảm, các bên có thể thỏa thuận một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ. Điều 296 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ như sau:

–  Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Thông thường, giá trị tài sản đảm bảo sẽ cao hơn so với nghĩa vụ được đảm bảo. Nhờ vậy, các bên có thể sử dụng tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ cùng một lúc. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên, giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn hoặc bằng tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm.

Ví dụ: A muốn thế chấp xe ô tô để vay vốn từ hai ngân hàng, bao gồm: Ngân hàng B là 150 triệu đồng và Ngân hàng C là 200 triệu đồng. Xe ô tô của A được định giá là 1 tỷ đồng, như vậy A đã đáp ứng được yêu cầu về giá trị tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, nếu giá trị xe của A là 300 triệu đồng , A không thể thế chấp xe ô tô cho cả hai ngân hàng vì giá trị tài sản không đủ để đảm bảo cho tổng số tiền vay. Do đó, A chỉ có thể thế chấp xe cho một trong hai ngân hàng (B hoặc C).

Pháp luật vẫn tôn trọng và cho phép nếu các bên có thể thỏa thuận về việc tổng giá trị tài sản bảo đảm nghĩa vụ vượt quá giá trị tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, phần vượt quá này sẽ không được bảo đảm, đồng nghĩa với việc là bên nhận bảo đảm sẽ chịu rủi ro cho phần nghĩa vụ tương ứng.

– Trường hợp một tài sản được bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Mỗi lần bảo đảm phải được lập thành văn bản.

Việc sử dụng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ là điều hoàn toàn hợp pháp và không cần sự đồng ý của bên nhận bảo đảm. Tuy nhiên, bên có nghĩa vụ vẫn phải thông báo cho bên nhận bảo đảm biết về việc này. Về việc thông báo này là vì tài sản bảo đảm liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, dẫn đến rủi ro cao hơn cho bên nhận bảo đảm. Việc thông báo giúp bảo đảm tính minh bạch và tranh chấp khi xử lý tài sản bảo đảm. Khi các bên sử dụng tài sản để bảo đảm cho một nghĩa vụ, các bên cần lập thành văn bản để ghi chép đầy đủ thông tin liên quan. Mặc dù pháp luật không quy định, nhưng để hạn chế rủi ro bên nhận đảm bảo xem xét kỹ lưỡng khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm và giá trị tài sản bảo đảm.

Giá trị tài sản cần được đánh giá dựa trên giá trị hiện tại và khả năng thay đổi giá trị trong tương lai. Như đã trình bày ở trên, bên nhận bảo đảm cần đảm bảo rằng giá trị tài sản vượt quá tổng giá trị nghĩa vụ được bảo đảm, vì bên có nghĩa vụ vì lợi ích của mình mà có thể khai gian giá trị của tài sản.

Đồng thời, nên cân nhắc khả năng sụt giảm giá trị của tài sản trong tương lai, bởi khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ chính thì phải đảm bảo giá trị tài sản bảo đảm sau khi giảm sút vẫn đủ để bảo đảm cho toàn bộ nghĩa vụ. Lý do pháp luật yêu cầu bên có nghĩa vụ thông báo cho bên nhận bảo đảm sau về việc tài sản được dùng để bảo đảm nhiều nghĩa vụ, vì thông tin này ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của bên nhận bảo đảm trong việc ký kết hợp đồng.

Vì vậy, họ cần được nắm rõ trạng tài sản bảo đảm để có thể đánh giá mức độ rủi ro và đưa ra quyết định phù hợp. Bởi, thông thường bên nhận bảo đảm trước có quyền được ưu tiên thanh toán cao hơn khi xử lý tài sản bảo đảm.

– Trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn đều được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản. Bên nhận bảo đảm đã thông báo về việc xử lý tài sản có trách nhiệm xử lý tài sản, nếu các bên cùng nhận bảo đảm không có thỏa thuận khác.

Trường hợp các bên muốn tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn thì có thể thỏa thuận về việc bên bảo đảm dùng tài sản khác để bảo đảm việc thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn.

Nếu không có thỏa thuận bảo đảm khác, bên nhận đảm bảo phải thông báo về việc xử lý tài sản (thường là bên có nghĩa vụ chính đến hạn đầu tiên). Việc này cần thiết vì xử lý tài sản khi một nghĩa vụ đến hạn có thể ảnh hưởng đến các nghĩa vụ khác.

Ví dụ: A thế chấp xe để vay vốn tại ngân hàng B và ngân hàng C cùng một lúc, khi đến hạn trả nợ mà của ngân hàng B mà A không đủ điều kiện để thanh toán, thì chiếc xe sẽ được xử lý để bảo đảm cho khoản vay. Ngân hàng B sẽ tiến hành bán tài sản thế chấp, khi tài sản đã được bán thì đồng nghĩa với việc tài sản bảo đảm của A tại ngân hàng C không còn. Như vậy, sau này khi khoản vay của ngân hàng C đến hạn sẽ không còn tài sản nào bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nữa.

Vì vậy, pháp luật quy định như vậy để bảo vệ quyền lợi của những bên nhận bảo đảm đối với cùng một tài sản. Tuy nhiên, pháp luật vẫn cho phép các bên tiếp tục quan hệ dân sự nếu bên bảo đảm sử dụng tài sản khác để đảm bảo nghĩa vụ chưa đến hạn. Điều này có nghĩa là, trong trường hợp một nghĩa vụ đến hạn, các nghĩa vụ còn lại mặc dù chưa đến hạn, cũng được coi là đến hạn để xử lý tài sản.

Trong trường hợp, nếu bên bảo đảm có tài sản khác dùng để bảo đảm cho các nghĩa vụ còn lại, thì quan hệ vẫn được tiếp tục. Quy định này chỉ cho phép các bên tiếp tục quan hệ nếu có tài sản đảm bảo thay thế, nhằm đảm bảo an toàn cho các bên nhận bảo đảm còn lại trong giao dịch.

Việc sử dụng một tài sản để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ có thể mang lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia giao dịch, nhưng cũng tiềm ẩn một số rủi ro nhất định. Do vậy, các bên cần cân nhắc kỹ lưỡng khi thực hiện giao dịch và đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon