Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng

cac-truong-hop-vo-hieu-cua-hop-dong

Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Khi giao kết hợp đồng, các chủ thể đều muốn hợp đồng đảm bảo được tính pháp lý của hợp đồng để dễ dàng thực hiện, đảm bảo mang lại lợi ích cho chủ thể. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan hoặc chủ quan mà hợp đồng giao kết có thể bị tuyên là vô hiệu. Do đó, để giải quyết vấn đề này cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, pháp luật đã có những quy định về hợp đồng vô hiệu. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích các trường hợp vô hiệu của hợp đồng.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015.

1. Hợp đồng vô hiệu là gì?

Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định: Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện giao dịch dân sự có hiệu lực thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.

Bên cạnh đó tại Điều 407 Bộ luật dân sự có quy định: Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.

Như vậy, có thể hiểu hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nên không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

2. Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng

2.1. Hợp đồng vô hiệu do chủ thể không có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với hợp đồng được xác lập

Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về năng lực chủ thể bao gồm: Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

– Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.

Theo quy định của pháp luật dân sự, năng lực chủ thể bao gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Hai loại năng lực này rất quan trọng thể hiện việc khả năng chủ thể có quyền và nghĩa vụ cũng như khả năng nhận thức, hiểu đúng, hiểu rõ nội dung từng quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng tham gia, đảm bảo hợp đồng được xác lập hoàn toàn có đầy đủ cơ sở để thực hiện trên thực tế.

Vì thế, khi chủ thể không đáp ứng được yêu cầu về năng lực, hợp đồng của họ phải do người đại diện xác lập, thực hiện hoặc tự họ xác lập thực hiện trong một số trường hợp nhưng phải được sự đồng ý của người đại diện là yêu cầu bắt buộc. Bởi vậy, nếu những chủ thể trên tự ý xác lập hợp đồng mà không thông qua người đại diện hoặc không được sự cho phép từ họ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu,

Hợp đồng trong trường hợp này được xếp vào loại hợp đồng vô hiệu tương đối. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này là 02 năm, kể từ ngày người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng (Điểm a Khoản 1 Điều 132 BLDS năm 2015).

– Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

Theo quy định tại Điều 128 BLDS năm 2015 thì: chủ thể là người có năng lực hành vi dân sự bình thường, nhưng vào đúng thời điểm xác lập hợp đồng, vì lý do nào đó mà họ không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình, mà xác lập hợp đồng trái với ý chí tự nguyện của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.

Việc không nhận thức, làm chủ được hành vi có thể xuất phát từ bệnh lý nhất thời hoặc là do người xác lập sử dụng chất kích thích như rượu, bia, ma túy (chưa đến mức phá tán tài sản, chưa bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi).

Ví dụ: Trong lúc Á đang bị say rượu và hứng chí, A đã thực hiện xác lập hợp đồng tặng cho B chiếc xe máy do A đang sở hữu. Sau khi tỉnh rượu, A mới nhận ra là mình đã làm một việc điên rồ không đúng với ý chí của mình, điều mà trong lúc 23 tỉnh táo A sẽ không bao giờ làm. Khi đó, A có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho B trước đó là vô hiệu.

2.2. Hợp đồng vô hiệu do mục đích và nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Theo quy định tại Điều 123 BLDS năm 2015 thì: Hợp đồng có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.

Theo đó, để bảo vệ lợi ích công cộng, pháp luật không công nhận những hợp đồng có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. Hợp đồng được xác lập, thực hiện nhằm mang lại lợi ích cho các bên trong giao dịch nhưng những lợi ích đó không làm phương hại đến lợi ích của người khác, lợi ích chung. Vì vậy, trong trường hợp này tuyên bố hợp đồng vô hiệu là điều cần thiết để hạn chế thiệt hại có thể hoặc đã xảy ra trên thực tế.

Các hợp đồng có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu theo quy định tại Khoản 1 Điều 117 và Điều 123 BLDS năm 2015. Đây là trường hợp hợp đồng bị coi là vô hiệu tuyệt đối, không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này không bị hạn chế (Khoản 3 Điều 132 BLDS năm 2015).

2.3. Hợp đồng vô hiệu do chủ thể tham gia giao kết hợp đồng không có sự tự nguyện 

Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do chủ thể tham gia giao kết hợp đồng không có sự tự nguyện bao gồm: Hợp đồng vô hiệu do giả tạo; Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn; Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.

– Hợp đồng vô hiệu do giả tạo: Trong hợp đồng giả tạo, các bên tham gia giao kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí giả tạo, không đúng với ý chí đích thực của họ, tức là giữa ý chí và bày tỏ ý chí không thống nhất với nhau.

Hợp đồng giả tạo bao gồm các giao dịch thật và giao dịch giả. Các bên thực hiện giao dịch giả để che giấu giao dịch thật hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Mục đích của các bên khi xác lập hợp đồng giả tạo nhằm che giấu một mục đích khác. Căn cứ quy định tại Điều 124 BLDS năm 2015, ta có thể xác định hai trường hợp hợp đồng vô hiệu do giả tạo như sau: Hợp đồng giả tạo nhằm che giấu hợp đồng khác; Hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.

– Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn: Theo quy định tại Điều 126 BLDS năm 2015 thì trường hợp hợp đồng được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập hợp đồng thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, trừ trường hợp mục đích xác lập hợp đồng của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập hợp đồng vẫn đạt được thì hợp đồng không bị vô hiệu.

– Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép: Lừa dối trong hợp đồng theo quy định tại Điều 127 BLDS năm 2015 là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng đó. Bản chất của hành vi lừa dối là làm cho bên bị lừa dối hiểu sai vấn đề và bởi vì hiểu sai cho nên họ chấp nhận xác lập hợp đồng.

Đe dọa, cưỡng ép trong hợp đồng theo quy định tại Điều 127 BLDS năm 2015: là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình. Theo Điều 127 BLDS năm 2015 thì: Một bên tham gia giao kết hợp đồng do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.

2.4. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định của luật về hình thức của hợp đồng

Hình thức của hợp đồng là phương tiện để thể hiện nội dung của hợp đồng. Thông qua phương tiện này, các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng và người thứ ba có thể biết được nội dung hợp đồng được xác lập. Theo Điều 119 BLDS năm 2015, hợp đồng được thể hiện dưới các hình thức: bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể:

– Hình thức bằng lời nói: Là hình thức hợp đồng phổ biến nhất hiện nay, mặc dù hình thức này có độ xác thực thấp nhất. Hình thức bằng lời nói thường áp dụng cho hợp đồng được thực hiện và chấm dứt ngay sau đó (mua bán trao tay) hoặc giữa các chủ thể có quan hệ mật thiết, tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau (bạn bè, người thân cho vay, mượn tài sản…).

– Hình thức bằng văn bản:

+ Văn bản thường: Các chủ thể tham gia hợp đồng thỏa thuận hoặc pháp luật quy định hợp đồng phải thể hiện theo hình thức văn bản. Hợp đồng dưới hình thức văn bản thường có chữ ký, xác nhận của các chủ thể trên nội dung hợp đồng nên hình thức này là chứng cứ xác định chủ thể đã tham gia vào quan hệ hợp đồng rõ ràng hơn hình thức bằng lời nói.

+ Văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký: Được áp dụng trong trường hợp pháp luật có quy định bắt buộc hoặc các bên có thỏa thuận phải có công chứng, chứng thực, đăng ký thì khi xác lập hợp đồng các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó. Ví dụ: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

– Hình thức hành vi: Hợp đồng có thể được xác lập thông qua những hành vi nhất định theo quy ước trước mà không cần phải thông qua lời nói hay bằng văn bản. Ví dụ: Mua hàng bằng máy bán hàng tự động, người dùng cho tiền vào máy và nhận lại sản phẩm mình muốn mua. Đây là hình thức xác lập hợp đồng giản tiện nhất và ngày càng được áp dụng phổ biến do hợp đồng được xác lập theo hình thức này không nhất thiết phải có sự hiện diện của đồng thời tất cả các bên tại nơi giao kết.

Khi tham gia giao kết hợp đồng, các bên được tự do lựa chọn hình thức của hợp đồng nhưng không phải không có giới hạn. Trong một số trường hợp, để đảm bảo lợi ích công cộng, sự quản lý của Nhà nước, quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng cũng như của người khác, pháp luật quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì các bên phải tuân theo quy định đó. Đối với các hợp đồng này, hình thức chính là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

Theo quy định tại Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức được xếp vào loại hợp đồng vô hiệu tuyệt đối. Sự vô hiệu của hợp đồng không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể mà phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này là 02 năm, kể từ ngày hợp đồng được xác lập (Điểm đ Khoản 1 Điều 132 BLDS năm 2015)

Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về các trường hợp vô hiệu của hợp đồng. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Bài viết liên quan

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon