Quan hệ dân sự là gì? Đại diện tham gia quan hệ dân sự

uan-he-dan-su-la-gi-dai-dien-tham-gia-quan-he-dan-su

Quan hệ dân sự là một thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ các mối quan hệ giữa các cá nhân hoặc tổ chức trong xã hội dân sự, mà không phải là trong lĩnh vực hình sự. Nó bao gồm các mối quan hệ pháp lý và trách nhiệm của các bên liên quan đến việc tuân thủ các quy định và nghĩa vụ của hợp đồng và luật pháp dân sự. Bên cạnh đó đại diện tham gia quan hệ dân sự thường là người hoặc tổ chức được ủy quyền hoặc bổ nhiệm để đại diện cho một bên trong quan hệ. Việc này có thể liên quan đến việc thương lượng, ký kết hợp đồng, hoặc tham gia vào các tình huống pháp lý khác thay mặt cho bên mình. Sau đây Luật Dương Gia sẽ phân tích rõ hơn về quan hệ pháp luật dân sự và đại diện tham gia quan hệ pháp luật dân sự dưới bài viết dưới đây.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ Luật Dân sự năm 2015

1. Quan hệ pháp luật dân sự là gì?

Về phạm vi điều chỉnh, Điều 1 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”.

Quan hệ pháp luật dân sự là một loại quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật dân sự, phát sinh trong lĩnh vực dân sự liên quan đến yếu tố nhân thân và tài sản, chẳng hạn như hôn nhân gia đình, lao động, thương mại và các lĩnh vực khác. Quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ xã hội phát sinh từ những lợi ích vật chất, lợi ích nhân thân được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh, trong đó các bên tham gia bình đẳng về mặt pháp lý, quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp mang tính cưỡng chế.

Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, các bên đều có mục đích và lợi ích nhất định nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất hoặc tinh thần. Tuy các quan hệ dân sự hình thành một cách khách quan nhưng được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người, do vậy việc tham gia hay không tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, xác định nội dung mối quan hệ mà họ tham gia phải xuất phát từ ý chí của các bên.

Có thể nói, sự tự định đoạt, ý chí tự do thể hiện của các chủ thể được thể hiện trọn vẹn nhất, ở đỉnh cao nhất khi họ tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Quan hệ pháp luật dân sự có thể xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật hoặc trên cơ sở ý chí của các bên tham gia nhưng phải phù hợp với quy phạm pháp luật dân sự.

2. Phân loại quan hệ pháp luật dân sự

2.1. Quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân

Nói đến quan hệ dân sự đầu tiên phải nói đến quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Có thể nói đây là hai mối quan hệ đặc trưng của quan hệ pháp luật dân sự.

– Quan hệ tài sản luôn gắn với một tài sản nhất định hoặc chuyển dịch tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác (quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng hay thừa kế tài sản…).

– Quan hệ nhân thân liên quan đến giá trị tinh thần là quan hệ gắn với chử thể và không thể chuyển dời. Có nghĩa là không thể dịch chuyển cho chủ thể khác (quyền đứng tên tác giả các tác phẩm văn học, khoa học, tác phẩm nghệ thuật,…).

Ví dụ: Nếu vi phạm các nghĩa vụ về tài sản sẽ áp dụng các chế tài mang tính chất tài sản như bồi thường thiệt hại. đền bù hoặc có biện pháp khắc phục thiệt hại,.. Ngược lại, nếu vi phạm các quan hệ về nhân thân sẽ áp dụng các biện pháp nhằm hồi phục lại tình trạng ban đầu.

2.2. Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối, tương đối

– Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối được xác định bởi sự tách biệt tuyệt đối giữa chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ. Trong những quan hệ này, chủ thể có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ dưới dạng không hành động (không thực hiện bất cứ hành vi nào xâm phạm đến quyền lợi của chủ thể có quyền). Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối bao gồm quyền sử dụng và quyền tạo ra tác phẩm nghệ thuật, quyền bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền y tế và quyền thừa kế. Trong các quan hệ này, chủ thể quyền được bảo vệ khỏi sự xâm phạm của chủ thể nghĩa vụ và có quyền thực hiện các hành động để bảo vệ quyền lợi của mình.

– Trong các quan hệ pháp luật dân sự tương đối, các chủ thể không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ phải thực hiện những điều được quy định trong quan hệ đó. Ví dụ, trong quan hệ hợp đồng, các bên đều có trách nhiệm phải thực hiện những điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình, bên kia có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc chấm dứt hợp đồng. Các quan hệ pháp luật dân sự tương đối không chỉ là quan hệ giữa hai bên mà có thể là quan hệ giữa nhiều bên. Trong trường hợp này, nghĩa vụ của mỗi bên sẽ phụ thuộc vào mối quan hệ của họ với nhau. Ví dụ, trong quan hệ hợp tác kinh doanh, nếu có nhiều bên tham gia, mỗi bên có nghĩa vụ thực hiện phần của mình để đạt được mục tiêu chung của quan hệ đó.

2.3. Quan hệ vật quyền và quan hệ trái quyền

– Quan hệ vật quyền là một trong những loại quan hệ pháp lý dân sự quan trọng và phổ biến nhất trong đời sống xã hội. Quan hệ vật quyền liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền tiếp quản, quyền thụ hưởng lợi ích từ một vật nhất định. Những quyền này đều được bảo vệ bởi pháp luật và có tính chất tuyệt đối, có nghĩa là chủ thể quyền có thể thỏa mãn yêu cầu của mình thông qua hành vi của chính mình, không phụ thuộc vào hành vi của người khác.

– Quan hệ trái quyền thường liên quan đến những quyền và nghĩa vụ mà các chủ thể có thể thực hiện hoặc phải thực hiện theo ý chí của người khác. Trong quan hệ trái quyền, người có quyền thực hiện những hành vi mà người có nghĩa vụ phải thực hiện, nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện sai quy định, thì người có quyền có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó.

3. Đại diện tham gia quan hệ dân sự

3.1. Đại diện là gì?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự 2015: Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Đại diện là một quan hệ pháp luật. Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện.

– Người đại diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại diện là người tiếp nhân các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện.

– Người được đại diện có thể là cá nhân không có năng lực hành vi, chưa đủ năng lực hành vi nên theo quy định của pháp luật, phải cố người đại diện trong quan hệ pháp luật. Cá nhân cố đầy đủ năng lực hành vi cổ thể uỷ quyền cho người khác là đai diên theo uỷ quyền của mình.

3.2. Phân loại quan hệ đại diện

3.2.1. Đại diện theo pháp luật cá nhân

Căn cứ theo Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

– Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

– Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.

– Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

– Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Trong một số trường hợp nhất định người đứng đầu pháp nhân có thể được xác định theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3.2.2. Đại diện theo pháp luật pháp nhân

– Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2015 bao gồm:

+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;

+ Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;

+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

– Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này.

3.2.3. Đại diện theo ủy quyền

– Có nhiều lý do khác nhau để cá nhân, người đứng đâu pháp nhân, chủ hộ gia đình… không thể trực tiếp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Pháp luật cho phép họ có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia giao dịch.

– Khoản 1 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

– Khác với đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, đại diện theo uỷ quyền là trường hợp quan hệ đại diện được xác lập theo ý chí của hai bên: Bên đại diện và bên được đại diên, biểu hiện qua một hợp đồng uỷ quyền hoặc một giấy uỷ quyền. Nôi dung uỷ quyền, phạm vi thẩm quyền đại diện và trách nhiệm cùa người đại diện theo uỷ quyền được xác định thông qua sự thoả thuận của người đại diện và người được đại diện.

– Tuy nhiên, có một số trường hợp pháp luật không cho phép xác lập giao dịch thông qua người đại diện (bất kể đại diện theo pháp luật hay theo uỷ quyền). Ví dụ như lập di chúc,…

– Người đại diện (cả người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền) là phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Ngoại lệ riêng đối với đại diện theo uỷ quyền thì người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện giao theo uỷ quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trên đây là nội dung liên quan đến “Quan hệ dân sự là gì? Đại diện tham gia quan hệ dân sự”. Trường hợp có thắc mắc vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số hotline 1900 6568 để được hỗ trợ và tư vấn.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon