Trong xã hội hiện đại, quyền được sống là quyền thiêng liêng, tối cao, được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo vệ. Bất kỳ hành vi nào xâm hại, đe dọa xâm hại đến quyền này đều bị pháp luật nghiêm trị.
Hành vi đe dọa giết người, dù chưa trực tiếp gây ra hậu quả chết người, nhưng gây ra sự hoang mang, lo sợ cho người bị đe dọa và gia đình họ, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, làm xáo trộn đời sống tinh thần của nhiều người. Đe dọa giết người còn là dấu hiệu ban đầu của nhiều hành vi phạm tội nguy hiểm khác như cố ý gây thương tích, giết người thực sự. Vì vậy, pháp luật hình sự Việt Nam quy định tội danh này nhằm răn đe và ngăn chặn sớm các hành vi nguy hiểm.
1 Khái niệm và ý nghĩa pháp lý của Tội đe doạ giết người
Tội đe doạ giết người là hành vi của một người bằng lời nói, hành động hoặc những thủ đoạn khác làm cho người bị đe doạ lo lắng rằng mình sẽ bị giết chết.
Khác với tội giết người, ở tội đe dọa giết người, hành vi mới dừng lại ở mức đe dọa, chưa thực sự gây ra hậu quả chết người. Tuy nhiên, hành vi này đủ làm cho người bị đe dọa lo sợ nghiêm trọng cho tính mạng của mình hoặc của người thân, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống tinh thần.
Một số hình thức đe dọa giết người phổ biến như:
- Dùng vũ khí, hung khí đe dọa trực tiếp.
- Gửi tin nhắn, gọi điện, nhắn tin qua mạng xã hội với nội dung đe dọa giết người.
- Hành vi bám theo, theo dõi, kèm theo lời nói đe dọa.
Ý nghĩa pháp lý về Tội đe doạ giết người nhằm mục đích:
- Bảo vệ toàn diện quyền sống, không chỉ chống lại hành vi giết người đã xảy ra mà cả những nguy cơ đe dọa tính mạng.
- Ngăn chặn từ sớm khả năng dẫn đến tội phạm nghiêm trọng hơn.
- Duy trì trật tự xã hội, trấn an tâm lý cộng đồng.
2. Hành vi đe dọa giết người khi nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Không phải hành vi đe dọa nào cũng bị xử lý hình sự. Chỉ khi hành vi đe dọa đạt đến mức độ làm cho người bị đe dọa thực sự lo sợ cho tính mạng, đời sống bản thân mình hoặc người thân thì mới đủ căn cứ cấu thành tội phạm.
3. Yếu tố cấu thành Tội đe doạ giết người
Tội đe dọa giết người theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) bao gồm các yếu tố cấu thành như sau:
3.1. Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định (từ đủ 16 tuổi trở lên).
Trong một số trường hợp đặc biệt, nếu người từ đủ 14 tuổi đã thực hiện hành vi đe dọa có tính chất rất nghiêm trọng thì cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3.2. Khách thể:
Hành vi phạm tội xâm phạm đến sự tự do của cá nhân và gián tiếp ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Khách thể bị xâm phạm là quyền được sống – quyền cơ bản nhất của con người được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, hành vi đe dọa còn xâm phạm đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, gây hoang mang, bất ổn trong cộng đồng.
Đối tượng bị xâm phạm có thể là:
- Bản thân người bị đe dọa
- Người thân thích của người bị đe dọa (cha, mẹ, vợ/chồng, con…)
3.3. Chủ quan:
Lỗi trong tội đe dọa giết người là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ hành vi của mình có thể làm cho người khác sợ hãi, lo lắng tính mạng sẽ bị xâm hại, nhưng vẫn thực hiện với mục đích gây áp lực, đe dọa, uy hiếp.
3.4. Khách quan:
Người phạm tội có những hành vi (hành động) khiến cho người bị đe doạ lo sợ mình sẽ bị giết. Hành vi này có thể qua cử chỉ (mài dao, lên đạn súng…) hoặc lời nói, viết thư, nhắn tin “ngày mai là ngày giỗ của mày”…. “tao sẽ lấy mạng mày …”;
Có thể được thực hiện đối với nạn nhân hoặc thông qua người khác mà người phạm tội biết rằng sẽ nói lại với nạn nhân.
Hành vi đe doạ phải khiến cho người bị đe doạ thực sự lo lắng lời đe doạ đó sẽ được thực hiện. Đây là dấu hiệu chủ quan từ phía nạn nhân nhưng lại là căn cứ cơ bản của tội phạm này. Để có căn cứ xác định dấu hiệu này, Cơ quan tố tụng cần xét trên nhiều phương diện: điều kiện khách quan, người đe doạ, nạn nhân, mối quan hệ giữa nạn nhân và người đe doạ…
Chẳng hạn, trong những điều kiện cụ thể, sự đe doạ đó khiến cho người ta tin là sự thật, những ở điều kiện khác thì không tin, sự đe doạ đó đối với người “gan thỏ đế” thì tin là sự thật, nhưng đối với người “gan cóc tía” thì không tin… Sự lo sợ từ phía nạn nhân này phải là sự lo sợ về hậu quả “chết người” chứ không phải hậu quả khác; hậu quả chết người này có thể do người phạm tội hay người khác tạo ra; chết người có thể xảy ra đối với chính nạn nhân hay người thân của nạn nhân.
Ví dụ: Nguyễn Văn A và Lê Thị B yêu nhau nhưng do không hợp nên chị B đề nghị chia tay. Mặc dù đã chia tay, nhưng anh A vẫn thường xuyên theo dõi, đeo bám chị B. Được biết chị B đã có mối quan hệ yêu đương mới với ông Đoàn Văn C, theo đó, anh A thường xuyên gửi các tin nhắn vào số điện thoại cá nhân ông C với nội dung xấu, hù doạ giết ông C nếu không chia tay với Chị B. Ngày 8/8, ông A đến nhà tìm gặp chị B nhưng không gặp, nên đã mang theo một con dao nhọn nhờ em trai chị B chuyển cho ông C. Ông C nhận được con dao, cùng với lời đe doạ trước đó nên rất lo sợ và trình báo Công an. Trường hợp này, có dấu hiệu được xem là phạm tội đe doạ giết người.
Nếu người phạm tội sau khi đe doạ lại có thêm một số hành vi (tương tự hành vi chuẩn bị giết người) và cố ý để nạn nhân hoặc người khác (người phạm tội biết là sẽ nói lại với nạn nhân) thấy mà tin là lời đe dọa có thật thì không xác định người phạm tội “chuẩn bị phạm tội” giết người. Bởi vì, tội đe doạ giết người nhằm khiến cho nạn nhân lo sợ chứ không nhằm mục đích giết người, cho nên người phạm tội cố ý để lộ âm mưu, kế hoạch.. giết người.
Lưu ý: trường hợp người phạm tội đe doạ giết người để thực hiện hành vi phạm tội khác (hiếp dâm, cướp tài sản, để tẩu thoát…) thì không phải là dấu hiệu khách quan của tội phạm này.
4. Mức hình phạt đối với Tội đe dọa giết người
Căn cứ Điều 133 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), hình phạt được quy định như sau:
Khoản 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người có hành vi đe dọa giết người.
Khoản 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu phạm tội trong các trường hợp sau:
- Đe dọa giết nhiều người
- Đe dọa có tổ chức
- Đe dọa người thi hành công vụ hoặc người đang thực hiện nhiệm vụ công vụ
- Đe dọa nhằm che giấu tội phạm khác
- Đe dọa nhằm trả thù người tố cáo, người làm chứng
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Quản chế sau khi chấp hành xong hình phạt tù.
5. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với Tội đe dọa giết người
5.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Căn cứ theo Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), một số tình tiết tăng nặng có thể áp dụng:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Các tình tiết này sẽ dẫn đến mức hình phạt nghiêm khắc hơn nhằm đảm bảo tính răn đe.
5.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Căn cứ Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), các tình tiết giảm nhẹ bao gồm:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;”
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ thể hiện sự nhân đạo của pháp luật, giúp người phạm tội có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.
5. Kết luận
Tội đe dọa giết người tuy chưa gây ra hậu quả chết người, nhưng hành vi này tiềm ẩn nguy cơ cao dẫn đến các tội phạm nghiêm trọng khác, đe dọa an toàn tính mạng, sự bình yên của xã hội. Pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng về việc xử lý hành vi này nhằm răn đe, ngăn chặn sớm các hành vi nguy hiểm, bảo vệ quyền được sống, được an toàn của mọi công dân.
Bất kỳ ai có hành vi đe dọa giết người đủ yếu tố cấu thành tội phạm đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt từ 06 tháng tù đến 07 năm tù, tùy vào mức độ vi phạm.
Mỗi cá nhân trong xã hội cần nâng cao ý thức pháp luật, ứng xử văn minh, tránh để xảy ra những hành vi bột phát dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Trong trường hợp gặp phải hành vi đe dọa giết người, nạn nhân nên nhanh chóng trình báo cơ quan chức năng để kịp thời ngăn chặn, xử lý theo quy định pháp luật.
Trên đây là bài viết của Luật Dương Gia về “Tội đe doạ giết người”. Trong trường hợp còn đang thắc mắc hoặc cần sử dụng dịch vụ, hãy liên hệ ngay với Luật Dương Gia để được tư vấn nhanh chóng và chính xác nhất.
CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0931548999; 02367300899