Hôn nhân là một điều thiêng liêng và có ý nghĩa rất lớn. Việc đăng ký kết hôn hợp pháp và được pháp luật công nhận sẽ kèm theo những quyền và nghĩa vụ tương ứng của cả vợ và chồng. Tuy nhiên, trong thực tế, không ít trường hợp vì những lý do khác nhau vẫn có những vi phạm chế độ một vợ, một chồng ở những mức độ khác nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc gia đình, thậm chí gây ra những hậu quả, hệ lụy rất lớn. Vậy, pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về việc xử lý hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng như thế nào?
Căn cứ pháp lý
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
– Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
– Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp;
1. Quy định chung về chế độ hôn nhân một vợ một chồng
Trong lịch sử, đa thê được chấp nhận một phần trong xã hội Do Thái cổ đại, ở Trung Quốc cổ đại và trong các nền văn hóa truyền thống của người Mỹ bản địa, châu Phi và Polynesia. Ở tiểu lục địa Ấn Độ, đa thê đã được thực hành trong thời cổ đại. Đa thê được chấp nhận ở Hy Lạp cổ đại, cho đến khi đế chế La Mã và Giáo hội Công giáo La Mã thay thế.
Ở Bắc Mỹ, đa thê được một số giáo phái Mặc Môn áp dụng, chẳng hạn như Nhà thờ Cơ bản của Jesus Christ các Thánh ngày sau (Nhà thờ FLDS).
Tại Việt Nam, một trong những những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình bao gồm: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”.
Như vậy, “một vợ một chồng” là một trong những nguyên tắc cơ bản hàng đầu của chế độ hôn nhân và gia đình. Theo đó, cá nhân đã kết hôn chỉ được có một vợ hoặc một chồng và trong thời kì hôn nhân không được kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.
2. Các trường hợp vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng
Do pháp luật chỉ cho phép và công nhận chế độ một vợ một chồng nên các trường hợp sau đây bị cấm và vi phạm chế độ hôn nhân, cụ thể như sau:
+ Đang có vợ, chồng mà kết hôn với người khác;
+ Đang có vợ, chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
+ Chưa có vợ, chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
+ Chưa có vợ, chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
Như vậy, vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng là việc một người trong thời kì hôn nhân kết hôn hoặc sống chung như vợ chồng với một người thứ ba ngoài vợ hoặc chồng hiện tại.
3. Xử phạt vi phạm hành chính hành vi ngoại tình
Dưới góc độ pháp lý, hiện nay pháp luật không quy định như thế nào là ngoại tình mà ngoại tình chỉ là từ ngữ thường dùng ở đời sống hàng ngày. Có thể hiểu ngoại tình là hành vi của người đã có vợ hoặc chồng nhưng lại có quan hệ tình cảm với người khác. Hành vi này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể là chung sống như vợ chồng, có thể là kết hôn… vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng như đã phân tích ở trên.
Theo đó, trường hợp ngoại tình có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể được quy định tại khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP:
Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
“Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác”.
4. Xử lý hình sự Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng
Hành vi vi phạm có thể bị xử lý trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các điều kiện sau đây:
Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác trong khi đang có vợ hoặc có chồng;
– Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
Đang có chồng, có vợ được hiểu là trường hợp đã kết hôn (có đăng ký kết hôn) và chưa chấm dứt quan hệ vợ chồng bằng quyết định có hiệu lực của toà án (công nhận thuận tình li hôn, xử cho ly hôn …).
– Chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà còn vi phạm.
Điều 182 Bộ luật Hình sự quy định về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Như vậy, chỉ trong trường hợp việc vi phạm chế độ một vợ một chồng, ngoại tình mà dẫn tới hậu quả làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc cả hai bên dẫn đến ly hôn; hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng mà còn vi phạm mới thỏa mãn yếu tố cấu thành tội này.
Chủ thể vi phạm không nhất thiết phải là cả hai người ngoại tình đã đăng ký kết hôn mà chỉ cần một trong hai người đã đăng ký kết hôn.
5. Một số bản án xử về tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng
5.1. Bản án số: 05/2022/HS-ST, ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
Tóm tắt nội dung vụ án:
Năm 2013, VVS nhập cảnh vào Hàn Quốc theo hộ chiếu thương mại, du lịch thời hạn 01 tháng. Sau khi hết thời hạn trên, VVS tiếp tục ở lại, cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc. Khoảng đầu năm 2014, VVS quen biết và có quan hệ tình cảm với chị BH, có quốc tịch Hàn Quốc (gốc Việt Nam) đến khoảng giữa năm 2015, hai bên quyết định việc kết hôn. Cơ quan có thẩm quyền tại Hàn Quốc chấp thuận cho hai bên kết hôn từ ngày 25/01/2016. Tháng 4/2016, VVS bị trục xuất về Việt Nam. Khoảng đầu năm 2019, cả hai nảy sinh mâu thuẫn, không thường xuyên liên lạc với nhau. Đến khoảng giữa năm 2019, VVS quen biết và nảy sinh tình cảm với chị G, trú tại thành phố Hải Phòng, sau đó hai bên quyết định tiến tới hôn nhân và được UBND xã L, huyện C, thành phố Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/10/2019. Khi biết VVS đã kết hôn với người khác tại Việt Nam, chị BH gửi đơn tố giác về việc VVS vi phạm chế độ một vợ, một chồng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng đề nghị xử lý. Ngày 08/02/2021, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã ra Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 01/2021/QĐST-HNGĐ hủy việc kết hôn trái pháp luật của VVS và chị G.
Hội đồng xét xử Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 182; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo: VVS 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Vi phạm chế độ một vợ, một chồng”.
Tải bản án tại đây: Bản án hình sự số 05/2022/HS-ST của TAND TP. Hải Phòng
5.2. Bản án số: 03/2021/HS-STT Ngày: 27/01/2021 của TAND huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên
Tóm tắt nội dung vụ án
Bị cáo Huỳnh Văn T và bà Phan Thị Mỹ T tự nguyện kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên vào ngày 06/11/2015. Do thường xuyên xảy ra mâu thuẫn vợ chồng nên cả hai ly thân. Đến khoảng tháng 4 năm 2018, T có quan hệ tình cảm và chung sống như vợ chồng với Thạch Thị Ngọc B. Sau đó, B mang thai với T. Ngày 19/11/2019, Huỳnh Văn T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tây Hòa giải quyết việc ly hôn với Phan Thị Mỹ T. Vì biết T đã cưới vợ khác và đã có con riêng nên T đồng ý ly hôn và được Tòa án nhân dân huyện Tây Hòa chấp nhận cho ly hôn tại bản án số 03/2020/HNGĐ-ST ngày 10/01/2020.
Tại Cáo trạng số 03/CT-VKSTH ngày 30/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Hòa truy tố bị cáo Huỳnh Văn T về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo điểm a khoản 1 Điều 182 Bộ luật Hình sự.
Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 182; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội: Vi phạm chế độ một vợ, một chồng, xử phạt bị cáo 01 (một) năm cải tạo không giam giữ.
Tải bản án tại đây: Bản án hình sự số 03/2021/HS-ST của TAND huyện Tây Hòa
Trường hợp cần tư vấn, hỗ trợ dịch vụ pháp lý liên quan đến lĩnh vực Hôn nhân gia đình hoặc về việc xử lý, giải quyết các vụ việc liên quan đến hành vi ngoại tình, vi phạm chế độ một vợ, một chồng, Quý khách hàng vui lòng liên hệ Công ty luật TNHH Dương Gia, hotline 19006586.