Dân cư và chủ quyền quốc gia đối với dân cư theo luật quốc tế

dan-cu-va-chu-quyen-quoc-gia-doi-voi-dan-cu-theo-luat-quoc-te

Dân cư trong luật quốc tế là cộng đồng người sống trên lãnh thổ của quốc gia nhất định và phải tuân thủ pháp luật của quốc gia đó. Vậy, dưới góc nhìn luật quốc tế thì cư dân được hiểu như thế nào? Các yếu tố cấu thành khái niệm cư dân trong luật quốc tế là gì? Cách xác định quốc tịch đối với dân cư theo luật quốc tế? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ phân tích cụ thể.

1. Khái quát về dân cư trong luật quốc tế

Dân cư là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành nên quốc gia – chủ thể cơ bản của luật quốc tế. Nếu theo cách hiểu thông thường, thì “dân cư” được hiểu là những người dân mang quốc tịch của một quốc gia nhất định. Tuy nhiên, về phương diện luật quốc tế, dân cư là tổng hợp những người sinh sống, cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định và chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia đó. Địa vị pháp lý của dân cư nói chung do luật quốc gia các nước hữu quan và luật quốc tế xác định. Theo đó, dân cư trong luật quốc tế được xác định gồm 3 nhóm cơ bản sau:

– Công dân của quốc gia sở tại (những người mang quốc tịch của nước họ đang sống);

– Người nước ngoài (những người không mang quốc tịch của quốc gia sở tại), bao gồm:

+ Viên chức ngoại giao, lãnh sự;

+ Các chuyên gia, lưu học sinh đến học tập, làm việc tại quốc gia sở tại. Cơ sở pháp lý để họ hiện diện tại nước sở tại có thể là các điều ước quốc tế hoặc các hợp đồng lao động;

+ Người nước ngoài đến định cư và làm ăn sinh sống tại quốc gia sở tại.

– Người không quốc tịch và người có nhiều quốc tịch.

2. Xác định quốc tịch đối với dân cư theo luật quốc tế

Khái niệm về quốc tịch: Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, “quốc tịch” là một khái niệm ra đời vào thời kỳ xã hội đang chuyển dần từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Đây là một chế định mới được giai cấp tư sản đưa ra nhằm thu hút và “lôi kéo” quần chúng nhân dân ủng hộ cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập chính quyền mới của giai cấp tư sản. Chế định này là một bước phát triển quan trọng trong lịch sử loài người, lần đầu tiên người dân sống trong một quốc gia đã có riêng cho mình một chế định mang tính pháp lý; đây cũng là lần đầu tiên họ được coi là “công dân” của một quốc gia chứ không phải là “thần dân” như trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên, ý nghĩa về sự bình đẳng mà giai cấp tư sản hứa mang lại cho họ khi đưa ra chế định quốc tịch thời bấy giờ cũng chỉ là sự bình đẳng mang tính hình thức. Trên thực tế, chỉ có giai cấp tư sản giai cấp nắm chính quyền mới được hưởng thụ một cách đầy đủ nhất sự bình đẳng và lợi ích mà chế định này mang lại.

Hiện nay, do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế – xã hội, cũng như sự gia tăng các học thuyết chính trị pháp lý về nhân sinh ngày càng nhiều hơn, các giá trị nhân văn ngày càng được trân trọng hơn, thì con người- với vai trò là chủ thể cơ bản hình thành nên mỗi quốc gia ngày càng được quan tâm. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là khái niệm công dân và địa vị pháp lý của họ trong hệ thống pháp luật quốc gia đang được ghi nhận một cách đúng nghĩa nhất. Lúc này, quốc tịch không còn là chế định mang tính hình thức, nó đã trở thành cách thức biểu đạt rõ nhất mối quan hệ hai chiều giữa một bên là nhà nước và một bên là công dân của họ.

Như vậy, từ phương diện pháp lý quốc tế hiện đại, quốc tịch là mối liên hệ mang tính chất pháp lý -chính trị giữa một cá nhận với một quốc gia nhất định và biểu hiện ở tổng thể các quyền và nghiã vụ pháp lý được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện.

  • Quốc tịch có một số đặc điểm sau: Từ định nghĩa nêu trên về quốc tịch, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm sau về quốc tịch:
  • Có tính ổn định và bền vững về không gian và thời gian.
  • Về không gian: Mối quan hệ pháp lý giữa quốc gia và cá nhân mang quốc tịch là hoàn toàn không bị hạn chế, điều này thể hiện ở chỗ: Khi đã mang quôc tịch và trở thành công dân của một quốc gia nào đó thì mỗi công dân phải luôn chịu sự chi phối và tác động về mọi mặt từ quốc gia đó, không kể họ đang cư trú ở đâu, trong hay ngoài nước, và tại nơi họ cư trú họ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau.
  • Về thời gian: Thông thường, một người ngay khi sinh ra đã mang một quốc tịch, tức là có mối liên hệ với ít nhất một quốc gia nhất định. Mối liên hệ này sẽ gắn bó suốt quá trình sống của người đó từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, trừ những trường hợp đặc biệt (như: xin thôi quốc tịch, bị tước quốc tịch…).
  • Quốc tịch thể hiện mối quan hệ pháp lý có tính hai chiều giữa nhà nước và công dân, là cơ sở để xác định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Khi mang quốc tịch của một quốc gia nào đó, thì công dân được hưởng những quyền đồng thời phải gánh vác các nghĩa vụ đối với nhà nước của họ; ngược lại, các quyền của công dân cũng chính là các nghĩa vụ mà quốc gia phải thực hiện nhằm đảm bảo tốt nhất các quyền của công dân và nghĩa vụ của công dân lại đồng thời là các quyền của quốc gia đó.
  • Tính cá nhân của quốc tịch: Quốc tịch gắn bó với bản thân mỗi cá nhân nhất định và không thể chia sẻ cho người khác. Việc thay đổi quốc tịch của một người không thể làm quốc tịch của người khác thay đổi theo
  • Quốc tịch vừa mang tính quốc tế, vừa là đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc gia. Trong quan hệ quốc tế, quốc tịch là cơ sở để quốc gia tiến hành bảo hộ ngoại giao cho công dân của mình; là cơ sở để quốc gia từ chối tiến hành dẫn độ tội phạm đối với công dân mình (trừ những trường hợp có điều ước quốc tế quy định về dân độ).

3. Nguyên tắc xác định quốc tịch

3.1. Ý nghĩa việc xác định quốc tịch

Xác định quốc tịch có ý nghĩa pháp lý vô cùng quan trọng đối với từng cá nhân trong xã hội, bởi vì quốc tịch là căn cứ, dấu hiệu nói lên sự quy thuộc của một cá nhân về một nhà nước nhất định. Sự quy thuộc này biểu hiện ở mối quan hệ pháp lý có tính 2 chiều giữa cá nhân là công dân với quốc gia mà họ mang quốc tịch. Về phía nhà nước, xác lập quốc tịch chính là hành vi thực hiện chủ quyền của quốc gia đối với dân cư của họ, bởi vì, về mặt pháp lý, quốc tịch chính là căn cứ để xác định giới hạn thẩm quyền tài phán của một quốc gia trong các mối quan hệ pháp luật, đồng thời thể hiện ranh giới chủ quyền giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Xuất phát từ chủ quyền quốc gia, mỗi nước đều có quyền quy định trong pháp luật nước mình những phương thức hưởng quốc tịch nhất định. Nhìn chung, hầu hết các quốc gia đều ghi nhận các phương thức sau:

+ Hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ

+ Hưởng quốc tịch theo sự gia nhập quốc tịch

+ Hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn quốc tịch

+ Hưởng quốc tịch theo sự phục hồi quốc tịch

Thứ nhất: Hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ

Đây là phương thức hưởng quốc tịch phổ biến nhất. Theo đó, việc công dân mang quốc tịch của một quốc gia được xác định một cách mặc nhiên ngay từ khi công dân đó mới được sinh ra. Nói cách khác, việc công dân mang quốc tịch trong trường hợp này không phụ thuộc vào ý chí của bản thân công dân mà phụ thuộc vào ý chí của nhà nước và trên cơ sở phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. Tuy nhiên, liên quan đến việc hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ, pháp luật các quốc gia lại có những quy định không giống nhau về cách thức hưởng. Thực tiễn pháp luật của các quốc gia có ghi nhận 2 nguyên tắc chính để xác định quốc tịch theo sự sinh đẻ, đó là: nguyên tắc huyết thống và nguyên tắc quyền nơi sinh.

– Nguyên tắc huyết thống: Nguyên tắc này quy định: mọi đứa trẻ sinh ra đều có quốc tịch theo quốc tịch của cha mẹ, không phụ thuộc vào nơi đứa trẻ được sinh ra. Hạn chế của nguyên tắc này là chưa đưa ra được hướng giải quyết trong trường hợp cha mẹ của đứa trẻ là những người không quốc tịch, hoặc không xác định được quốc tịch, hoặc không có cùng quốc tịch, thì không thể xác định quốc tịch cho đứa trẻ theo nguyên tắc này.

– Nguyên tắc quyền nơi sinh: Nguyên tắc này quy định: mọi đứa trẻ sinh ra trên lãnh thổ nước nào thì mang quốc tịch của nước đó không phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ chúng. Nguyên tăc này đã khắc phục được nhược điểm của nguyên tắc huyết thống là xác định quốc tịch cho đứa trẻ không rõ quốc tịch trên lãnh thổ của một quốc gia, nhưng nguyên tắc này cũng bộc lộ hạn chế đó là: trường hợp những đứa trẻ có cha mẹ là công dân của quốc gia khác, nhưng do được sinh ra tại quốc gia có quy định nguyên tắc này, dẫn đến đứa trẻ đương nhiên có quốc tịch của quốc gia nơi nó được sinh ra. Điều này dẫn đến sự gia tăng hiện tượng hai hay nhiều quốc tịch của công dân.

Cả hai nguyên tắc này, dù ít hay nhiều đều có khiếm khuyết là không thể bao quát được hết các trường hợp xảy ra trên thực tế. Để góp phần giải quyết các hạn chế nêu trên, pháp luật về quốc tịch của hầu hết các quốc gia đều kết hợp một cách hài hòa và chặt chẽ đồng thời cả 2 nguyên tắc này.

Thứ hai, Hưởng quốc tịch theo sự gia nhập

Được hiểu là việc một người nhận quốc tịch của một quốc gia khác do việc xin gia nhập quốc tịch. Việc nhận quốc tịch được quyết định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc trao quốc tịch nước đó theo một trình tự được pháp luật quy định. Thông thường có 3 trường hợp hưởng quốc tịch theo sự gia nhập, đó là:

Do xin vào quốc tịch: Đây là trường hợp phổ biến nhất. Việc xin vào quốc tịch quốc gia khác hoàn toàn xuất phát từ ý chí, nguyện vọng cá nhân của người muốn xin vào quốc tịch. Điều này được thể hiện thông qua việc viết đơn xin gia nhập của người muốn xin vào quốc tịch. Đối với trường hợp này, các quốc gia hữu quan thường đưa ra những điều kiện nhất định đối với người xin gia nhập quốc tịch, thông thường các điều kiện này gồm có:

– Điều kiện về độ tuổi

– Điều kiện về thời gian cư trú

– Điều kiện về khả năng ngôn ngữ

– Điều kiện về khă năng kinh tế

– Điều kiện về phẩm chất đạo đức

Đây là những điều kiện chung cơ bản, ngoài ra phụ thuộc vào bản chất chế độ và trình độ phát triển, cũng như phong tục tập quán của mỗi quốc gia mà họ có thể đưa ra một số quy định bổ sung, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc không tạo ra sự phân biệt đối xử nào và không được trái với các quy định được công nhận chung của cộng đồng quốc tế.

Trên cơ sở những quy định chung liên quan đến vấn đề xin gia nhập quốc tịch, xuất phát từ chủ quyền quốc gia, pháp luật Việt nam cũng đưa ra một số điều kiện chung cho những người muốn xin gia nhập quốc tịch Việt Nam. Theo đó, “công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch đang thường trú tại Việt nam có đơn xin gia nhập quốc tịch việt nam, thì có thể được nhập quốc tịch Việt nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây:

  • Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt nam;
  • Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt nam; tôn trọng truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc Việt nam;
  • Biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng Việt nam;
  • Đã thường trú ở Việt nam từ 5 năm trở lên;
  • Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt nam”.

Do kết hôn với người nước ngoài: Liên quan đến trường hợp này, pháp luật các quốc gia cũng có những quy định rất khác nhau. Trong Công ước 1957 về quốc tịch của người phụ nữ đi lấy chồng quy định: người phụ nữ có địa vị pháp lý bình đẳng với nam giới trong việc giữ hoặc thay đổi quốc tịch của mình khi kết hôn. Phù hợp với pháp luật quốc tế, nhằm đảm bảo công bằng cho vai trò của người phụ nữ, pháp luật Việt nam không coi việc kết hôn của phụ nữ Việt nam với người nước ngoài là một trong những trường hợp đương nhiên mất quốc tịch., quốc tịch của họ chỉ bị mất khi họ có đơn xin thôi quốc tịch. Do được người nước ngoài nhận làm con nuôi: Pháp luật của hầu hết các quốc gia đều thừa nhận nguyên tắc, trẻ em không có quốc tịch hoặc có quốc tịch nước khác, khi được người nước ngoài nhận làm con nuôi, có thể xin gia nhập quốc tịch của cha hoặc mẹ nuôi, tùy theo từng trường hợp cụ thể.

Thứ ba, Hưởng quốc tịch theo sự lựa chọn

– Trường hợp này được đặt ra khi: có sự dịch chuyển lãnh thổ (VD: Nước A chuyển giao một phần lãnh thổ cho B, khi đó công dân của A đang sống trên phần lãnh thổ đã chuyển giao cho B được phép tự lựa chọn quốc tịch cho mình); Khi xuất hiện các điều ước quốc tế liên quan (VD: Quốc gia A ký với B một điều ước quốc tế quy định trong khoảng thời gian nào đó, tất cả công dân đang mang quốc tịch của cả 2 nước này phải chọn quốc tịch của một trong hai quốc gia. Nếu sau thời gian đó, họ không tự chọn cho mình thì họ sẽ được hưởng quốc tịch của quốc gia mà họ đang sống).

  • Lựa chọn quốc tịch là quyền của người dân được tự do lựa chọn cho mình một quốc tịch hoặc là giữ nguyên quốc tịch cũ hoặc là nhận quốc tịch của quốc gia hữu quan khác. Tuy nhiên, việc lựa chọn quốc tịch phải được thực hiện trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện về ý chí và nguyện vọng của đương sự.

Thứ tư, Hưởng quốc tịch theo sự phục hồi

– Phục hồi quốc tịch là hoạt động pháp lý nhằm khôi phục lại quốc tịch cho người đã bị mất quốc tịch do nhiều nguyên nhân khác nhau.

– Vấn đề phục hồi quốc tịch được đặt ra với những người trước đây ra nước ngoài sinh sống và bị mất quốc tịch hoặc những người mất quốc tịch vì các lý do khác như kết hôn, ly hôn hoặc làm con nuôi người nước ngoài…Do trước đây họ đã có quốc tịch của quốc gia này, nhưng do một số lý do họ xin thôi quốc tịch để nhập vào quốc tịch của một quốc gia khác, do đó khi có nguyện vọng quay trở lại quốc tịch, các quốc gia thường quy định trình tự thủ tục đơn giản hơn rất nhiều và có tích chất ưu tiên hơn so với những người xin gia nhập quốc tịch lần đầu. Tuy nhiên, để được phục hồi quốc tịch, người có nhu cầu cũng phải đảm bảo một số điều kiện nhất định, thường là không có hành vi làm nguy hại đến an ninh quốc gia trong suốt thời gian mất quốc tịch.

Ngoài những trường hợp nêu trên, trong thực tiễn quan hệ quốc tế còn xuất hiện cách thức hưởng quốc tịch theo phương thức được thưởng quốc tịch.

  • Đây là một trường hợp hưởng quốc tịch rất đặc biệt trong thực tiễn quan hệ quốc tế. Thưởng quốc tịch là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia công nhận người nước ngoài là công dân nước mình, vì những đóng góp, công lao của người này cho quốc gia thuởng quốc tịch. Việc thưởng quốc tịch phải được sự đồng ý của người được thưởng quốc tịch.
  • Trên thực tế, việc thưởng quốc tịch này có thể dân đến hai hệ quả pháp lý, đó là: người được thưởng quốc tịch trở thành cônhg dân thực sự của quốc gia thưởng quốc tịch; hoặc người được thưởng quốc tịch sẽ là công dân danh dự của nhà nước thưởng quốc tịch và việc thưởng này chỉ có ý nghĩa và giá trị về mặt tinh thần.

3.2. Nguyên tắc xác định quốc tịch đối với người hai và không quốc tịch

– Người hai quốc tịch

+ Hai quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng một lúc là công dân của cả hai quốc gia. Nói cách khác, pháp luật của cả hai quốc gia đều coi người đó là công dân của mình, trên cơ sở đó cùng một lúc họ sẽ đồng thời được hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ công dân của cả hai quốc gia.

+ Thực tiễn cho thấy, những người mang hai quốc tịch là nguyên nhân gây ra trở ngại rất lớn cho quốc gia trong việc thực hiện chủ quyền của mình đối với dân cư, và trong một chừng mực nhất định nó gây ra trở ngại cho quốc gia trong quan hệ hợp tác quốc tế. Việc đưa đến tình trạng hai quốc tịch do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là do xung đột pháp luật giữa các nước về vấn đề quốc tịch. Phổ biến có các nguyên nhân sau:

+ Do sự xung đột pháp luật của các nước khi quy định về các trường hợp hưởng quốc tịch. Trường hợp này xảy ra khi đứa trẻ được sinh ra trên lãnh thổ quốc gia có luật quốc tịch áp dụng nguyên tắc luật nơi sinh nên đứa trẻ sẽ mang quốc tịch của nước đó, đồng thời cha mẹ đứa trẻ lại là công dân của nước có luật quốc tịch áp dung nguyên tắc huyết thống nên đứa trẻ mang thêm quốc tịch theo quốc tịch của cha mẹ (VD: đứa trẻ A có cha mẹ là công dân của nước áp dụng nguyên tắc huyết thống (Việt Nam) sinh ra trên lãnh thổ của nước áp dụng nguyên tắc nơi sinh (Brazin). Do vậy theo luật của Brazil đứa trẻ sẽ mang quốc tịch Brazil, theo luật của việt Nam thì đứa trẻ cũng có quốc tịch của Việt Nam).

+ Do hành vi kết hôn, nhận con nuôi trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (VD: E là công dân của Việt Nam lấy chồng người Pháp. Theo luật của Pháp E cũng có quốc tịch của Pháp, đồng thời theo pháp luật Việt Nam E vẫn được giữ quốc tịch của Việt Nam).

+ Do một cá nhân được hưởng quốc tịch mới nhưng không đương nhiên bị mất quốc tịch cũ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do luật quốc tịch của nước họ không có quy định về việc đương nhiên mất quốc tịch khi vào quốc tịch mới.

+ Để hạn chế và ngăn ngừa các trở ngại do hiện tượng hai hay nhiều quốc tịch mang lại, trong quan hệ hợp tác của mình các quốc gia đã ký kết một số điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương nhằm mục đích ngăn chặn và tiến tới loại bỏ các trường hợp nhiều quốc tịch. Theo các điều ước này, đương sự có quyền tự do lựa chọn một quốc tịch trong số những quốc tịch mà họ hiện có.

– Người không quốc tịch

+ Không quốc tịch là hiện tượng một cá nhân không có quốc tịch của một quốc gia nào, đồng nghĩa với việc người đó cũng không được coi là công dân của bất kỳ nước nào. Đây là hiện tượng phát sinh do một số nguyên nhân như:

+ Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ của nước áp dụng riêng biệt nguyên tắc “quyền huyết thống” mà cha mẹ là người không có quốc tịch.

+ Khi có sự xung đột pháp luật của các nước về vấn đề quốc tịch, chẳng hạn một người do cư trú ở nước ngoài mà theo luật nước họ họ bị tước quốc tịch hoặc tự động mất quốc tịch, nhưng luật của nước nơi họ đang cư trú lại yêu cầu phải được sự chấp thuận thôi quốc tich gốc mới được vào quốc tịch mới.

+ Khi một người đã mất quốc tịch cũ (do được thôi quốc tịch, bị tước quốc tịch, tự động mất quốc tịch…) nhưng chưa có quốc tịch mới.

+ Địa vị pháp lý của người không quốc tịch bị hạn chế hơn nhiều so với công dân của nước sở tại và người có quốc tịch nước ngoài trên lãnh thổ quốc gia mà họ đang sinh sống. Theo nguyên tắc, những người không quốc tịch có khối lượng quyền và tự do ít hơn, bị hạn chế trong việc sử dụng các quyền dân sự và chính trị, không có khả năng yêu cầu sự giúp đỡ bảo hộ ngoại giao trong trường hợp các quyền và lợi ích cá nhân của họ bị xâm phạm.

3.4. Mất quốc tịch

Nếu như có quốc tịch là cơ sở để xác định mối quan hệ pháp lý vững chắc, ổn định giữa một cá nhân với một quốc gia thì ngược lại mất quốc tịch sẽ làm chấm dứt mội quan hệ giữa một cá nhân với quốc gia mà mình mang quốc tịch. Là một mối liên hệ ổn định và bền vững về mặt không gian và thời gian, quốc tịch chỉ có thể thay đổi trong những điều kiện nhất định, và trong những trường hợp nhất định theo sự quy định của pháp luật. Do vậy, pháp luật quốc gia của hầu hết các nước đều quy định những trường hợp cụ thể mà theo đó công dân không còn được mang quốc tịch của quốc gia mình. Nhìn chung, mất quốc tịch gồm một số trường hợp phổ biến sau:

Trường hợp 1: Đương nhiên mất quốc tịch

– Việc mất quốc tịch của một công dân xảy ra khi người đó ở vào những trường hợp mà pháp luật đã có những quy định từ trước. Pháp luật của các nước trên thế giới thường quy định những trường hợp cụ dẫn đến hệ quả pháp lý mất quốc tịch của đương sự khi họ thực hiện một trong các hành vi sau đây:

– Gia nhập quốc tịch nước khác

– Phục vụ trong lực lượng vũ trang nước ngoài

– Tham gia vào bộ máy nhà nước của quốc gia khác

Như vậy, đương nhiên mất quốc tịch là trường hợp công dân của một quốc gia[ bị mất quốc tịch một cách mặc nhiên chứ không phải là hành vi trừng phạt từ nhà nước.

Trường hợp 2: Xin thôi quốc tịch

– Thôi quốc tịch là việc đương sự bị mất quốc tịch xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của đương sự khi họ yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước mình cho phép họ thôi quốc tịch.

– Để được thôi quốc tịch đương sự phải làm đơn xin thôi quốc tịch gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền và khi được phép thôi quốc tịch họ sẽ không được coi là công dân của nước đó nữa. Pháp luật các nước đều quy định một số điều kiện chủ yếu để xin thôi quốc tịch như:

– Đã hoàn thành hoặc được miễn nghĩa vụ quân sự

– Đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế hoặc các nghĩa vụ tài chính cho quốc gia mà họ xin thoi quốc tịch.

– Không phải thi hành các phán quyết dân sự

– Không bị truy tố hình sự trong thời gian xin thôi quốc tịch c. Bị tước quốc tịch

– Tước quốc tịch là việc công dân bị chính quốc gia mà mình mang quốc tịch tước bỏ quyền được mang quốc tịch trên cơ sở những hành vi vi phạm pháp luật của nước đó, thông thường đó là những hành vi gây phương hại đến lợi ích và uy tín của quốc gia…

– Tước quốc tịch là biện pháp trừng phạt mà quốc gia thi hành đối với công dân nước mình khi họ không còn xứng đáng với danh hiệu công dân nữa. Như vậy việc một người có quốc tịch cũng chính là vấn đề liên quan đến danh dự cá nhân. Vì vậy chỉ khi nào công dân có hành vi vi phạm cụ thể và được luật quy định mới có thể bị tước quốc tịch. Trình tự thủ tục và điều kiện tước quốc tịch được quy định trong pháp luật quốc gia của mỗi nước và hoàn toàn phải tôn trong nguyên tắc đã được đưa ra trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948. Theo đó, “mọi người đều có quyền có một quốc tịch; không ai bị tước quốc tịch một cách vô cớ và bị từ chối quyền được đổi quốc tịch”.

Bài viết liên quan

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon