Những điểm mới của BLDS năm 2015 về những quy định chung về hợp đồng

nhung-diem-moi-theo-bo-luat-dan-su-2015-ve-nhung-quy-dinh-chung-ve-hop-dong

Hợp đồng là một trong những chế định pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý nền tảng cho các giao lưu dân sự ổn định và phát triển. Thực tiễn thi hành hơn 10 năm qua đã cho thấy các quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 bộc lộ không ít những điểm hạn chế và bất cập, cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với đòi hỏi của xã hội, góp phần tạo hành lang pháp lý vững chắc thúc đẩy các giao lưu dân sự. BLDS năm 2015 đã sửa đổi về vấn đề này nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. Phạm vi bài viết sau đây chỉ giới hạn nghiên cứu về Những điểm mới trong BLDS năm 2015 về quy định chung về hợp đồng.

1. Khái niệm hợp đồng

Về cơ bản, BLDS 2005 và BLDS 2015 đều đưa ra khái niệm hợp đồng là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Tuy nhiên, BLDS 2015 có sự thay đổi cơ bản về mặt thuật ngữ, mang đến cách hiểu phù hợp và thống nhất hơn về quy định khái niệm hợp đồng – đó là việc bỏ thuật ngữ “dân sự” theo sau thuật ngữ “hợp đồng”. Điều 388 BLDS 2005 quy định khái niệm hợp đồng dân sự dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau. Bản thân từ “dân sự” trong pháp luật Việt Nam vừa có thể hiểu dưới góc độ nghĩa rộng để chỉ chung các vấn đề thuộc lĩnh vực luật tư (bao gồm các vấn đề trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động), vừa có thể hiểu dưới góc độ nghĩa hẹp – chỉ là quan hệ dân sự thuần túy. Do đó, việc sử dụng thuật ngữ hợp đồng dân sự không tránh khỏi cách hiểu rằng các nhà làm luật cố ý phân biệt giữa hợp đồng dân sự với các hợp đồng thuộc lĩnh vực luật chuyên ngành khác (hợp đồng lao động, hợp đồng kinh tế…). Cách hiểu này rõ ràng không phù hợp với vị trí, vai trò của BLDS nói chung, cũng như chế định hợp đồng nói riêng – với tư cách là luật chung cho tất cả những vấn đề thuộc lĩnh vực luật tư. Quy định như BLDS 2005 sẽ giới hạn phạm vi tác động của các quy định về hợp đồng đối với các hợp đồng cụ thể trong pháp luật chuyên ngành.

BLDS 2015 quy định về khái niệm hợp đồng tại Điều 385 đã được sửa đổi để khắc phục hạn chế nêu trên. Đồng thời tất cả các quy định khác trong chế định hợp đồng đều chỉ được đề cập với tên gọi “hợp đồng” thay cho “hợp đồng dân sự”. Rõ ràng, sự thay đổi này là hoàn toàn hợp lý, góp phần giữ đúng vị trí và vai trò của BLDS là luật chung được áp dụng giải quyết tất cả những vấn đề phát sinh liên quan đến hợp đồng, nếu pháp luật chuyên ngành không có quy phạm điều chỉnh.

2. Giao kết hợp đồng

2.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng

Nội dung này được quy định tại Điều 389 BLDS 2005. Tuy nhiên, qua quá trình rà soát để đảm bảo tính thống nhất và logic trong các quy định pháp luật xuyên suốt toàn bộ BLDS, BLDS 2015 đã bỏ quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng vì nhận thấy quy định này đã trùng với quy định những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 3, BLDS 2015).

2.2. Đề nghị giao kết hợp đồng

Giao kết hợp đồng được nhìn nhận là một quá trình, và quá trình này có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, nhất thiết các bên trong hợp đồng phải trải qua quá trình đàm phán, thỏa thuận trước khi chấp nhận giao kết. Một bên trong hợp đồng sẽ gửi đề nghị giao kết hợp đồng đến bên còn lại để thể hiện ý chí của mình về việc muốn giao kết hợp đồng. Nội dung về đề nghị giao kết hợp đồng được quy định trong BLDS 2005 tại Điều 390 và trong BLDS 2015 tại Điều 386. Nhìn từ hai quy định có thể thấy rằng, về cơ bản, một lời đề nghị được gửi đi sẽ được coi là một lời đề nghị giao kết hợp đồng nếu thỏa mãn được những điều kiện: (i) thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng; (ii) chịu sự ràng buộc về đề nghị; (iii) gửi tới bên nhất định đã được xác định cụ thể. Tuy nhiên, BLDS 2015 có điểm mới khi quy định bên được đề nghị ngoài là bên đã xác định cụ thể thì có thể gửi đến công chúng. Theo cá nhân người viết, sự bổ sung này là phù hợp.

Thật vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 390 BLDS 2005: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Quy định này dẫn tới những cách hiểu khác nhau về bên được đề nghị – thế nào là được xác định cụ thể? Một lời đề nghị được coi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu lời đề nghị đó được gửi đến đích danh một chủ thể đã được cá biệt hóa một cách rõ ràng. Ví dụ: A muốn bán xe máy cho B thì phải gửi lời đề nghị trực tiếp đến B; hay công ty A muốn bán sản phẩm mỹ phẩm của mình cho khách hàng với mức giá cụ thể bao nhiêu thì phải gửi đích danh đến từng khách hàng đó theo thông tin về họ tên, địa chỉ, số điện thoại… cụ thể. Hay có thể hiểu trường hợp đề nghị không được gửi đến đích danh một người cụ thể nhưng được gửi đến một nhóm người có cùng chung một điểm đặc thù nhất định được không? Ví dụ: Hệ thống cửa hàng bán đồ trẻ em đưa ra lời quảng cáo sẽ chạy chương trình tri ân khách hàng nhân ngày 01/6 với những khách hàng mua sản phẩm tại hệ thống từ 01/6 đến 05/6 sẽ được quay số trúng thưởng các phần quà trị giá từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Trường hợp này lời đề nghị không gửi đến một người cụ thể nhưng rõ ràng vẫn có thể coi bên được đề nghị ở đây đã được xác định cụ thể – đó là những khách hàng mua hàng tại hệ thống cửa hàng từ ngày 01/6 đến 05/6 sẽ được nhận quà từ chương trình tri ân. Khoản 1 Điều 386 BLDS 2015 đã bổ sung bên được đề nghị bao gồm cả công chúng để khắc phục được những cách hiểu khác nhau trong quy định tại BLDS 2005. Tuy nhiên, về vấn đề này, theo quan điểm cá nhân của người viết, một lời đề nghị chỉ cần đủ rõ ràng và thể hiện được ý chí của bên đưa ra đề nghị về việc sẽ bị ràng buộc khi lời đề nghị giao kết được chấp nhận là đã đủ điều kiện để trở thành một lời đề nghị giao kết hợp đồng, vì suy cho cùng dù có gửi đến một người cụ thể hay một nhóm người cụ thể thì chỉ cần bên đưa ra lời đề nghị thể hiện ý chí sẽ chịu ràng buộc khi đề nghị được chấp nhận thì hoàn toàn có thể tạo tiền đề cho một hợp đồng được xác lập trong tương lai.

2.3. Thông tin trong giao kết hợp đồng

Đây là nội dung mới được quy định tại Điều 387 BLDS 2015. Nhận thấy giai đoạn tiền hợp đồng cũng là giai đoạn hết sức quan trọng, có thể phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến giữ bí mật thông tin, trách nhiệm của các bên khi có được những thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên còn lại, hoặc sử dụng thông tin có được của đối phương vào mục đích riêng trái pháp luật… các nhà làm luật bổ sung thêm quy định về thông tin trong giao kết hợp đồng, qua đó củng cố nguyên tắc thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng khi giao kết hợp đồng.

2.4. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Khoản 2 Điều 393 BLDS 2015 so với quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tại Điều 396 BLDS 2005 đãbổ sung quy định:  “Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bênViệc đưa ra quy định này nhằm giải quyết vấn đề trong thực tiễn giao kết hợp đồng mà có những trường hợp cần coi sự im lặng của bên được đề nghị là chấp nhận giao kết hợp đồng. Về nguyên tắc, sự chấp nhận giao kết hợp đồng phải được thể hiện rõ ràng, nhưng trong trường hợp các bên đã thỏa thuận nếu bên được đề nghị im lặng thì được coi là đồng ý giao kết hợp đồng hoặc theo thói quen mà các bên đã coi sự im lặng là đồng ý thì cần thừa nhận hình thức chấp nhận giao kết này.

Bên cạnh quy định bổ sung về sự im lặng trong giao kết hợp đồng thì quy định về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong BLDS 2015 cũng có sự sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, BLDS 2005 chỉ quy định thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong trường hợp bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời trong đề nghị giao kết gửi cho bên được đề nghị, tuy nhiên không quy định về trường hợp nếu bên đề nghị không ấn định cụ thể thời hạn trả lời trong lời đề nghị thì thời hạn trả lời chấp nhận giao kết được xác định thế nào? BLDS 2015 đã bổ sung quy định này theo hướng: “Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý”. Rõ ràng, thời gian hợp lý này sẽ được xác định dựa vào từng lĩnh vực, ngành nghề, hoàn cảnh cụ thể, trong nhiều trường hợp có tính đến cả phương thức truyền tin được sử dụng để gửi lời đề nghị giao kết hợp đồng.

Một nội dung nữa liên quan đến vấn đề chấp nhận giao kết hợp đồng chính là việc chấp nhận giao kết hợp đồng trong trường hợp bên đề nghị (bên được đề nghị) giao kết hợp đồng chết, mất năng lực hành vi dân sự. BLDS 2015 bổ sung thêm quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi tại Điều 23, theo đó Điều 395 và Điều 396 Bộ luật này cũng bổ sung thêm quy định về những cá nhân này. Cụ thể: thời điểm bên đề nghị bị Tòa án tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị; tương tự trong trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Ngoài ra, Điều 395 và Điều 396 BLDS 2015 đã bổ sung quy định “trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị (hoặc bên được đề nghị)”. Thiết nghĩ sự bổ sung này là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ rõ ràng những lời đề nghị giao kết mà nội dung giao kết gắn liền với nhân thân của bên đề nghị (hoặc bên được đề nghị) thì chỉ có người đó mới có khả năng giao kết và thực hiện hợp đồng mà thôi! Ví dụ: Anh A gửi lời đề nghị giao kết hợp đồng đến một họa sĩ B nổi tiếng với nội dung thuê B vẽ bức chân dung mình và trả thù lao 20 triệu. B trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng với A, nhưng khi chưa thực  hiện được hợp đồng thì B bị tai nạn và không thể qua khỏi. Như vậy, ở đây đã xuất hiện trường hợp nội dung hợp đồng gắn liền với nhân thân của bên được đề nghị, và về bản chất thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng này không thể có giá trị được. Dù bên đề nghị có nhận được trả lời chấp nhận đề nghị thì hợp đồng cũng không thể được coi là đã giao kết, vì suy cho cùng sẽ không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng.

 2.5. Thời điểm giao kết hợp đồng

Xác định thời điểm giao kết hợp đồng có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì trong nhiều trường hợp thời điểm giao kết hợp đồng chính là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Nội dung này được quy định tại Điều 400 BLDS 2015. Theo đó, so với quy định tại Điều 404 BLDS 2005 thì quy định tại BLDS 2015 đã cụ thể và rõ ràng hơn.

Thật vậy, khoản 2 Điều 400 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó”. Thực tế, có trường hợp bên được đề nghị im lặng nhưng sự im lặng đó không do ý chí của họ mà do một nguyên nhân khách quan, ví dụ do các trường hợp bất khả kháng mà họ không thể trả lời cho bên đề nghị được. Sự im lặng này không có nghĩa là họ đã đồng ý giao kết. Mặt khác, thực tế rất ít khi các bên thoả thuận về việc im lặng là đồng ý. Chính vì vậy nếu các bên không thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì không thể mặc nhiên coi sự im lặng là đồng ý được. Ngược lại, nếu các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó. Quy định mới này của BLDS 2015 đã chỉ ra rõ ràng thời điểm giao kết hợp đồng trong trường hợp này – tương thích với các trường hợp khác được quy định trong chính Điều 400 và phù hợp với tên của điều luật về thời điểm giao kết. (Nội dung này cũng đã được đề cập tới tại khoản 2 Điều 404 BLDS 2005, tuy nhiên quy định tại điều luật chưa chỉ rõ được thời điểm giao kết hợp đồng được xác định như thế nào.)

BLDS 2015 bổ sung thêm quy định về thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản, theo đó ngoài cách xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản thì có thể xác định thời điểm giao kết là thời điểm mà các bên xác nhận bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản – ví dụ như điểm chỉ, hoặc đóng dấu… Ngoài ra, đoạn thứ hai của khoản 4 Điều 400 BLDS 2015 bổ sung quy định: “Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều này”. Khoản 3 Điều 400 quy định về cách xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói. Như đã trình bày ở trên, việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng, vì trong nhiều trường hợp thời điểm giao kết hợp đồng chính là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng – thời điểm ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Quy định này thực sự trở nên cần thiết trong trường hợp các bên đã thỏa thuận được với nhau xong về những nội dung cơ bản của hợp đồng, đồng thời một trong các bên đã thực hiện hợp đồng, sau đó lại muốn thể hiện hợp đồng bằng văn bản thì cần xác định thời điểm giao kết hợp đồng vẫn là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng, mà không phải thời điểm bên sau cùng ký hoặc thể hiện hình thức chấp nhận khác trên văn bản.

2.6. Nội dung của hợp đồng

Điều 398 BLDS 2015 quy định về nội dung của hợp đồng, theo đó để tránh cứng nhắc trong thực hiện và giải quyết tranh chấp về hợp đồng, nhất là tránh việc Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do thiếu điều khoản nào đó được quy định là nội dung của hợp đồng, BLDS 2015 đã sửa đổi quy định này theo hướng: các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung của hợp đồng, sau đó đưa ra những nội dung có tính gợi ý cho các bên lựa chọn thỏa thuận. Bên cạnh đó, so với quy định tại Điều 402 BLDS 2005 thì Bộ luật mới đã bổ sung thêm nội dung mà các bên có thể thỏa thuận liên quan đến phương thức giải quyết tranh chấp.

2.7. Điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng

Nội dung này được quy định tại Điều 406 BLDS 2015 và là quy định hoàn toàn mới. Theo bản Báo cáo thuyết minh Bộ luật dân sự  (sửa đổi) của Bộ Tư pháp trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến tại Phiên họp thứ 31 (9/2014) về ý tưởng sửa đổi, bổ sung các quy định trong BLDS 2005, quy định về điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng được bổ sung nhằm “đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn có rất nhiều công ty lớn ban hành các điều kiện nghiệp vụ để áp dụng khi giao kết hợp đồng, ví dụ: Điều kiện cấp tín dụng, Điều kiện thanh toán của ngân hàng, Điều kiện cung cấp một số sản phẩm bảo hiểm… Với tư cách là luật chung của hệ thống luật tư, BLDS cần phải quy định về điều kiện giao dịch chung đang tồn tại như một loại quy tắc trong giao lưu dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên”. Từ lý do các nhà làm luật đưa ra để giải thích cho việc cần thiết phải có điều luật trong BLDS quy định về điều kiện giao dịch chung nhằm đảm bảo Bộ luật là luật chung cho cả hệ thống luật tư, thiết nghĩ cũng có khía cạnh hợp lý. Tuy nhiên, với cách quy định tại Điều 406 BLDS 2015 như hiện nay thì hoàn toàn chưa rõ ràng thế nào là điều kiện giao dịch chung? Vì dường như khó phân biệt nó với điều khoản trong hợp đồng theo mẫu được quy định tại Điều 405 BLDS 2015.

3. Hiệu lực của hợp đồng

Quy định về cách xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong 2 văn bản luật không có sự khác nhau, tuy nhiên BLDS 2015 bổ sung thêm về quy định này với nội dung: “Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật”. Sự bổ sung này là cần thiết để xác định rõ sự ràng buộc giữa các bên khi hợp đồng đã có hiệu lực, tránh những trường hợp trong thực tế các bên đã ký kết hợp đồng nhưng lại không tôn trọng cam kết của mình, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của hiệu lực của hợp đồng cũng như việc xác định chính xác thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trên thực tế.

Sự bổ sung quy định liên quan đến nội dung hiệu lực của hợp đồng như đã nói ở trên là hoàn toàn cần thiết và phù hợp, tuy nhiên theo quan điểm cá nhân của người viết, để có sự thống nhất cao giữa tên điều luật với nội dung được quy định bên trong thì cần thay đổi tên Điều 401 BLDS 2015 cho phù hợp, cụ thể cần thay đổi “Hiệu lực của hợp đồng” thành “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng”.

Quy định về hợp đồng vô hiệu về cơ bản vẫn được giữ nguyên như quy định tại BLDS 2005. BLDS 2015 chỉ sửa đổi quy định về hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được tại khoản 1 Điều 408. Theo đó, trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu, không quy định về lý do dẫn đến đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được là lý do khách quan hay chủ quan như quy định tại khoản 1 Điều 411 BLDS 2005.

  1. Hình thức của hợp đồng

Hình thức của hợp đồng được quy định tại Điều 401 BLDS 2005. BLDS 2015 đã bỏ quy định này trong phần các quy định chung về hợp đồng. Thiết nghĩ việc sửa đổi này là hợp lý, đáp ứng sự thống nhất cao trong các quy định về hợp đồng nói riêng cũng như quy định về giao dịch dân sự nói chung, bởi lẽ hợp đồng chỉ là một loại giao dịch dân sự, và hình thức của giao dịch dân sự đã được quy định cụ thể trong chế định giao dịch dân sự rồi. Đồng thời, sự sửa đổi này tạo điều kiện cho các quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam gần gũi và tương thích hơn với các quy định về hợp đồng trong pháp luật của các quốc gia khác trong khu vực cũng như trên thế giới. Bởi lẽ, suy cho cùng hình thức cũng chỉ là sự thể hiện ra bên ngoài nội dung của hợp đồng, sự thỏa thuận của các bên và sự ràng buộc về quyền và nghĩa vụ mà các bên tự đặt ra đối với mình và với phía đối tác mới là điều quan trọng hơn.

5. Thực hiện hợp đồng

Cũng như quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng, quy định về nguyên tắc thực hiện hợp đồng cũng được bỏ đi khi quy định về việc thực hiện hợp đồng trong BLDS 2015. Nhìn chung, các quy định về thực hiện hợp đồng đơn vụ, thực hiện hợp đồng song vụ, thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba… đều được giữ nguyên như quy định tại BLDS 2005. Có một số điểm sửa đổi nhỏ như:

– Điều 417 BLDS 2005 được sửa đổi tên điều luật để thống nhất hơn giữa tên điều luật và nội dung quy định bên dưới, cụ thể sửa đổi tên “Nghĩa vụ không thể thực hiện được do lỗi của bên có quyền” thành “Nghĩa vụ không thực hiện được do lỗi của một bên” (Điều 413 BLDS 2015);

– Quyền từ chối của người thứ ba (trong hợp đồng dân sự vì lợi ích của người thứ ba) trong trường hợp người thứ ba từ chối lợi ích của mình sau khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành và bên có quyền vẫn phải thực hiện cam kết đối với bên có nghĩa vụ, trong trường hợp này lợi ích phát sinh từ hợp đồng thuộc về bên mà nếu hợp đồng không vì lợi ích của người thứ ba thì họ là người thụ hưởng, nếu không có thỏa thuận khác (khoản 2 Điều 416 BLDS 2015).

– Thực hiện hợp đồng trong trường hợp có thỏa thuận phạt vi phạm bổ sung quy định về mức phạt vi phạm trong trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác hạn chế mức phạt thì các bên phải tuân theo quy định của pháp luật liên quan (khoản 2 Điều 418 BLDS 2015); khoản 3 Điều luật này quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm dân sự mà bên vi phạm nghĩa vụ phải chịu trong trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về bồi thường thiệt hại, cụ thể: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Từ quy định này có thể hiểu, nếu hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm và không thỏa thuận về chế tài nào khác thì bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng nếu gây thiệt hại cũng chỉ phải chịu phạt vi phạm mà thôi.

Bên cạnh những quy định được sửa đổi so với BLDS 2005 ở trên thì BLDS 2015 có quy định mới về thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. BLDS 2005 chưa có quy định về hai vấn đề này. Cụ thể, BLDS 2005 chỉ có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nghiên cứu về trách nhiệm dân sự nói chung do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Về vấn đề này, khoản 2 Điều 419 BLDS 2015 quy định: “Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại”. Xét ở góc độ tích cực, quy định này bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp mà bên bị thiệt hại trong quan hệ hợp đồng phải gánh chịu, đồng thời phù hợp với các quy định trong pháp luật quốc tế. Cụ thể về vấn đề này, Điều 7.4.2 Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT về mua bán hàng hóa quốc tế quy định: “Bên bị thiệt hại có quyền đòi bên kia bồi thường toàn bộ những tổn thất gây ra do việc không thực hiện hợp đồng. Những tổn thất này bao gồm những tổn thất phải gánh chịu và những lợi ích đáng lẽ phải có từ việc thực hiện hợp đồng, có tính đến những chi phí tổn thất mà bên vi phạm tránh được”. Tuy nhiên, xét ở góc độ áp dụng quy định này trên thực tiễn ở Việt Nam thì việc xác định các lợi ích mà lẽ ra bên có quyền sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại sẽ như thế nào? Liệu chỉ bồi thường những thiệt hại thực tế hay bồi thường cả những thiệt hại suy đoán? Vấn đề này thiết nghĩ cần được hướng dẫn cụ thể hơn nữa nhằm tạo điều kiện cho việc xác định thiệt hại trên thực tế để yêu cầu bồi thường một cách dễ dàng. Cũng vẫn liên quan đến nội dung này, khoản 3 Điều 419 bổ sung quy định về việc bồi thường thiệt hại những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại. Quy định này rõ ràng phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn mà BLDS 2005 chưa làm được. Theo đó, Tòa án có thể căn cứ vào yêu cầu của người có quyền để buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền, mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc cụ thể.

BLDS 2015 bổ sung quy định về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi để bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên trong hợp đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong thực tế nảy sinh nhiều trường hợp mà trong quá trình thực hiện hợp đồng thì hoàn cảnh thay đổi, dẫn đến quyền lợi của một bên bị thiệt hại nặng nề, thậm chí không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Để đảm bảo lẽ công bằng cho các bên trong hợp đồng, BLDS với tư cách là luật chung của hệ thống luật tư cần thiết phải bổ sung quy định về điều chỉnh hợp đồng khi có hoàn cảnh thay đổi. Theo đó, trong những trường hợp mà hoàn cảnh thay đổi dẫn đến sự thay đổi cơ bản sự cân bằng lợi ích giữa các bên thì các bên có thể thỏa thuận điều chỉnh hợp đồng; nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án quyết định. Để tránh sự lạm dụng, gây thiệt hại cho một bên trong hợp đồng, khoản 1 Điều 420 Bộ luật đưa ra các điều kiện áp dụng quy định về hoàn cảnh thay đổi, cụ thể:

“a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;

b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh;

c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;

d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;

đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.”

Điều 422 BLDS 2015 quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng, về cơ bản quy định này vẫn giữ nguyên những quy định về chấm dứt hợp đồng trong BLDS 2005, có bổ sung thêm trường hợp chấm dứt hợp đồng theo quy định tại Điều 420 (về chấm dứt hợp đồng trong trường hợp có sự thay đổi cơ bản về hoàn cảnh).

Điều 423 BLDS 2015 quy định về hủy bỏ hợp đồng, trong đó có bổ sung trường hợp một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiệm trọng nghĩa vụ hợp đồng. Khoản 2 Điều luật này giải thích vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Đồng thời Điều 424, Điều 425 và Điều 426 quy định về các trường hợp hủy bỏ hợp đồng cụ thể, bao gồm: hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ, hủy bỏ hợp đồng do không có khả năng thực hiện, hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp tài sản bị mất, bị hư hỏng. Ngoài ra, Điều 427 BLDS 2015 một cách chi tiết về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng. Cụ thể:

1. Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.

2. Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.

Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.

Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường.

Việc giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này và luật khác có liên quan quy định.

Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định tại các điều 423, 424, 425 và 426 của Bộ luật này thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan”.

Quy định về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng cũng được sửa đổi, bổ sung so với quy định tại BLDS 2005. Cụ thể khoản 1 Điều 428 BLDS 2015 bổ sung trường hợp một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.

Về cơ bản, quy định về hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng trong BLDS 2015 đã được sửa đổi và bổ sung tương đối nhiều nội dung, tuy nhiên trong số những nội dung này còn có những điểm hạn chế nhất định. Vấn đề này sẽ được đề cập tới trong một bài viết khác.

7. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng

Bên cạnh những sửa đổi, bổ sung đã được nêu ở trên, Điều 429 BLDS 2015 cũng có điểm mới – đó là thời hiệu khởi kiện về hợp đồng đã được kéo dài thêm 01 năm. Theo đó, thời hiệu khởi kiện đề yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm. Thời hạn 03 năm được xác định kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Quy định này rõ ràng phù hợp hơn với đòi hỏi của thực tiễn, bởi lẽ trên thực tế có những trường hợp cá nhân hoặc pháp nhân không biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm khi nào để yêu cầu khởi kiện, do đó nếu áp dụng cách tính thời điểm này là 03 năm kể từ khi quyền và lợi ích bị xâm phạm như quy định tại BLDS 2005 thì đôi khi không xác định được.

Trên đây là những điểm mới của BLDS năm 2015 về quy định chung về hợp đồng. Thiết nghĩ sự sửa đổi, bổ sung này là cần thiết để những quy định về hợp đồng trở nên dễ áp dụng và phù hợp hơn với đòi hỏi của thực tiễn./.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon